Bài Thơ Dịch Thủy Tống Biệt
Bắt đầu từ bài thơ tiễn đưa Kinh Kha qua sông Dịch đi hành thích Tần Thủy Hoàng:
“Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn,
Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn.”
Dịch:
Gió hiu hiu hề sông Dịch lạnh
Tráng sĩ một đi hề không trở về.
Lạc Tân Vương đã viết bài thơ: “Dịch Thủy Tống Biệt”:
Dịch Thủy Tống Biệt
Tráng sĩ phát xung quan
Tích thời nhân dĩ một
Kim nhật thủy do hàn.(Lạc Tân Vương – đời Đường)
Tiễn Biệt Trên Bờ Sông Dịch
Đây chỗ biệt Yên Đan
Tóc dựng khí căm gan
Anh hùng xưa đã khuất
Nước lạnh hận chưa tan.
(Nguyễn Hiến Lê dịch)
Đất này ly biệt Yên Đan
Giận run; tráng sĩ, mặt ran; tóc xừng!
Lận dao trủy thủ, lên đàng
Ngày này Sông Dịch, ngổn ngang lạnh hoài!
(Laiquangnam dịch)
Vấn Đề Kinh Kha
Kinh Kha đi hành thích Tần Thủy Hoàng là chuyện có thật trong Sử Ký của Tư Mã Thiên. Anh hùng hay không đang trong vòng bàn cãi! Rất nhiều người khen ông ta, nhưng Nguyên Lạc tôi không nghĩ vậy. Nhân vật này rất tầm thường nếu so với các anh hùng Việt Nam. Tại sao chúng ta người Việt lại ca tụng ông ta quá mức vậy?
Hãy đọc kỹ sẽ thấy Kinh Kha bất tài, vô trí; chỉ là một con rối bị người mua chuộc, lợi dụng. Võ lược cũng chẳng ra gì! Này nhé:
1. Nguyễn Du chê bai Kinh Kha.
Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên có chép:
“…Thái Tử Đan tôn Kinh Kha lên làm Thượng Khanh, xây một biệt thự đối diện với biệt thự Phàn Ô Kỳ, gọi là Kinh Quán để Kinh Kha ở. Thái Tử Đan ngày ngày đến thăm, cung phụng đúng mức, hiến đủ thứ, ngựa xe và gái đẹp.
Hôm nọ Kinh Kha cùng Thái Tử Đan đi chơi ở Đông Cung, thấy dưới ao có con rùa lớn nổi lên. Kinh Kha nhặt viên ngói ném rùa, Thái Tử Đan liền lấy thoi vàng đưa Kinh Kha thay viên ngói. Một hôm hai người cùng thi cưỡi ngựa, Thái Tử Đan có con ngựa quí đi ngàn dặm. Kinh Kha bỗng nói:
– Gan ngựa ăn ngon lắm.
Thái Tử Đan lập tức giết ngựa lấy gan cho Kinh Kha ăn. Thái Tử Đan lại giới thiệu Phàn Ô Kỳ với Kinh Kha.
Lại một hôm Thái Tử mở tiệc đãi Kinh Kha ở Hoa Dương Đài, có cho mỹ nhân hầu hạ, gảy đàn giúp vui. Kinh Kha thấy hai bàn tay của mỹ nhân trắng muốt, thoan thoát chạy trên những đường tơ, vội buột miệng khen:
– Thật là tay tiên. Đẹp làm sao!
Lúc tan tiệc, nội thị dâng Kinh Kha một hộp ngọc. Kinh Kha mở ra xem, thì đó là hai bàn tay của mỹ nữ mà Thái Tử Đan sai chặt, đem biếu Kinh Kha.
Kinh Kha than:
– Thái Tử Đan đãi ta như thế ấy, dẫu chết cũng chưa trả được ơn sâu!”
Ngày nay đọc đoạn văn ấy, chúng ta không thấy xúc động như Kinh Kha, mà nổi giận vì tại sao Thái Tử Đan tàn bạo đến thế. Thái Tử Đan tàn bạo có kém chi Tần Thủy Hoàng. Thủy Hoàng sai bỏ con của Lao Ái và mẹ mình là Triệu Cơ vào bao, rồi đập chết, còn có lý do. Thái Tử Đan vì muốn Kinh Kha trả thù cho mình, chỉ vì một lời khen bàn tay đẹp mà giết mỹ nhân vô cớ, thật tàn bạo? Sao Thái Tử Đan không tặng Kinh Kha mỹ nữ, mà lại chặt tay mỹ nữ như con ngựa, con heo vậy? Đâu là lòng nhân?!
Nguyễn Du chê Kinh Kha không bằng Dự Nhượng. Dự Nhượng hy sinh thân mình báo thù cho chủ, còn Kinh Kha đi thích khách Tần Thủy Hoàng chỉ vì có người biết đến mình, và vì sự đối đãi thừa mứa. Kinh Kha chỉ là một con rối, hành động không vì tấm lòng trung dũng (diệt kẻ tàn bạo, phò người đức độ) đâu có hy sinh vì dân tộc, mà hành động chỉ vì sự mua chuộc và kích động của Điền Quang, của Thái Tử Đan. Hành động của Kinh Kha không có Trí, mà chỉ vì Danh. Không có lòng Nhân, mà chỉ có Bạo lực đối với Bạo lực. Cái Dũng của Kinh Kha chỉ là cái dũng của kẻ bị mồi ngon thừa mứa, cám dỗ mà hành động.
Đây là trích đoạn bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, phần chê bai Kinh Kha.
Thần dũng nghị nhiên duy độc quân.
Đồ đắc Điền Quang khinh nhất vẫn.
Khả liên vô cô Phàn Ô Kỳ,
Dĩ đầu tá nhân vô hoàn thì..
Nhất triêu uổng sát tam liệt sĩ,
Hàm Dương thiên tử chung nguy nguy.
(Kinh Kha Cố Lý – Thơ chữ Hán Nguyễn Du)
Liều thân chỉ vì kẻ biết mình,
Huống được Điền Quang tự đâm cổ.
Khá thương Phàn Kỳ chẳng tội chi.
Đem đầu cho mượn chẳng hoàn gì.
Một sớm chết oan ba liệt sĩ.
Hàm Dương, Thiên tử vẫn uy nghi.
(Nhất Uyên dịch)
(Theo Tiến sĩ Phạm Trọng Chánh)
2. Kinh Kha võ lược tầm thường
Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên có chép:
[… Tần Thủy Hoàng:
– Lấy bàn đồ Vũ Dương cầm đưa lên đây.
Kinh Kha dâng lên. Vua Tần lần mở ra xem, mở gần hết thì lòi chuôi con dao trủy thủ. Kinh Kha thừa dịp, tay trái nắm tay áo vua Tần, tay phải cầm trủy thủ đâm. Nhát đâm hụt. (hành động của Kinh Kha không dứt khoát, thủ pháp không chính xác). Vua Tần hoảng sợ, đứng phắt dậy, tay áo đứt rời. Vua Tần tuốt kiếm, kiếm dài vướng vỏ. Lúc bấy giờ hoảng hốt, kiếm lại chặt quá nên không rút ra ngay được. Kinh Kha đuổi theo vua Tần, vua Tần chạy quanh cột trụ (vua trang phục thường rườm rà, nên không nhanh nhẹn vậy mà Kinh Kha cũng không thể nào đuổi kịp, chứng tỏ thân pháp của Kinh Kha có vấn đề, không linh hoạt). Bọn triều thần đều kinh ngạc, vì sự việc xảy ra bất ngờ nên không ai giữ được bình tĩnh. Theo phép nước Tần, các quan chầu trực ở trên điện không được mang theo binh khí. Các Lang Trung cầm binh khí đều đứng sắp hàng ở dưới điện, nếu không có chiếu gọi thì không được lên. Bấy giờ đang lúc gấp, không kịp gọi những người cầm binh khí ở dưới. Vì vậy Kinh Kha đuổi theo vua Tần, các quan cuống quýt, không có gì để đánh trả lại, chỉ lấy tay không mà đánh Kinh Kha. Lúc bấy giờ viên thầy thuốc đứng hầu, tên là Hạ Vô Thư, lấy túi thuốc cầm trong tay ném Kinh Kha. Vua Tần cứ vòng quanh cái cột mà chạy, cuống quýt không còn biết phải làm thế nào. Bọn tả hữu nhắc:
– Đại Vương, đẩy kiếm ra phía sau lưng.
Vua Tần đẩy kiếm ra sau lưng, tuốt chém Kinh Kha, chặt đứt đùi bên trái. Bị thương, Kinh Kha phóng con dao trủy thủ, nhưng không trúng vua Tần (lại thêm một chi tiết rất đắt giá phản ánh rõ nét nhất về thủ, cước pháp của Kinh Kha, cứ cầm dao chạy theo, không hề có phản ứng của quyền cước), trúng cái cột đồng (ngày nay trong các bức họa Kinh Kha thích Tần đều vẽ cây trủy thủ ghim vào cột là thế). Vua Tần chém tiếp, Kinh Kha bị tám vết thương, tự biết công việc không xong bèn tựa vào cột mà cười, ngồi xổm mà mắng:
– Việc này không thành là vì ta muốn bắt sống nó (lời nói rất ngạo mạn, khoác lác), buộc nó phải nhận lời trả lại các đất đai đã chiếm của chư hầu, để ta được báo đáp Thái Tử.]
Qua những lời trên, rõ ràng chúng ta thấy Kinh Kha chỉ là tên khoác lác, võ thuật tệ hại!
Luận Anh Hùng
“Anh hùng là hành động của một người vì đại cuộc không xem sự sống chết của mình là quan trọng tuyệt đối, sống vì tha nhân, hy sinh vì dân tộc, cho dù có phải chết thì vui lòng đón nhận. Khi bàn đến hai từ “anh hùng” thì ý niệm thành công không nằm trong thuộc tính định nghĩa cho từ đó. Thử tra hai từ Heros trong các bộ Encyclopedia thì biết. Đông Tây đều định nghĩa như thế” (Laiquangnam)(1)
Suy gẫm chuyện Kinh Kha, ta thấy ông ta đâu phải là người anh hùng. Như Nguyễn Du đã chê bai: Kinh Kha đi thích khách Tần Thủy Hoàng chỉ vì có người biết đến mình và vì sự đối đãi thừa mứa. Kinh Kha chỉ là một con rối, hành động không vì tấm lòng trung dũng (diệt kẻ tàn bạo, phò người đức độ), đâu có hy sinh vì dân tộc, mà hành động chỉ vì sự mua chuộc và kích động của người khác..
Tại sao ông ta lại được nhiều người làm thơ, hát ca để ca tụng, vinh danh?!
Anh hùng là như Đặng Dung của Việt Nam ta đây:
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
(Đặng Dung)
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
Xin mời các bạn tìm hiểu kỹ về vị Anh Hùng đáng kính này cùng bài thơ Cảm Hoài (Nỗi niềm hoài bão) của ông. (1)
Mặc dù vua Trần Giản Định Đế đã u mê giết tướng Đặng Tất, cha Đặng Dung, thế mà ông vẫn vì nước quên thù nhà, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống lại cuộc xâm lăng của Trương Phụ (tướng nhà Minh)
Sử liệu cho biết:
“Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc chỉ đạo cho Trương Phụ (năm 1406), trong lần xuất binh thứ hai, huy động 80 vạn quân dân binh các loại, quyết tâm làm cỏ nước ta và xóa sạch đất nước này trên bản đồ thế giới.
Các vị anh hùng (dưới sự lãnh đạo của Đặng Dung) đã đánh nhau ròng rã trên dưới bảy năm (1407-1413) với một binh lực hơn hẳn mình. Có lúc họ cũng đã thắng nhiều trận lẫy lừng, tưởng chừng như đã thắng, nhưng dài hơi thì cuộc đọ sức đã không cân sức. Than ôi! họ đã bại trận!. Trên đường bị bắt đưa về Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) để làm nhục, vua tôi Đặng Dung đã ca hát như không có chuyện gì xảy ra, thắng bại là lẽ thường tình đối với người tráng sĩ một khi họ đã toàn tâm toàn ý, hết lòng, hết sức vì dân tộc. Đặng Dung, trong vai trò lãnh đạo cuộc kháng chiến, đã ngâm cho vua tôi nghe khúc ca cảm khái này, vừa ngâm vừa gõ nhịp xuống ván gỗ thuyền, cùng vui và sẵn sàng đón nhận mọi sự trả thù tàn bạo của kẻ thù. Dân tộc ta đâu còn lạ gì sự tra tấn đầy thú tính của người Tàu đối với dân bị trị..
Sử kể rằng: Đặng Dung vốn coi cái chết nhẹ như lông hồng, ông thường ngâm vang cho các chiến hữu cùng nghe bài thơ này. “Nhóm quý Ông” cùng nhau gõ ván thuyền giữ nhịp. Lính canh xem Họ khác gì như cá nằm trên thớt, nay cam đành số phận. Họ không còn mấy ngày trên thế gian. Bọn lính canh lơ là và trở nên dễ chịu là lúc “quý Ông” lập mưu, xin lính canh được chút không khí để thở, do bởi có người đang ốm. Bất ngờ, kẻ trước người sau, cùng nhào xuống biển từ trầm qua ô cửa vừa mở ra.
Một thiên anh hùng ca lẫm liệt, một cái chết của một tập thể kiêu hùng trong dòng sử Việt. (Laiquangnam)(1)
Đây là bài thơ Cảm Hoài (Nỗi niềm hoài bão) của Đặng Dung.
Bài thơ này là một bản anh hùng ca mang tâm trạng về thế sự, trong ấy thể hiện rõ phong cách của người tráng sĩ, người anh hùng trong cơn quốc nạn.
Cảm Hoài
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
Tạm dịch nghĩa
Nỗi Niềm Hoài Bão
Thế sự mang mang lại tuổi già
Thiên hạ thì vô cùng hãy nhập vào mà hát hàm ca
Thời đến bọn đồ tể, bọn câu cá cũng thành công dễ dàng
Thời qua anh hùng cũng đành nuốt hận
Hết lòng vì chúa có hoài bão xoay trục đất
Rửa giáp binh không lối kéo ngược dòng sông ngân hà
Thù nước chưa báo thì đầu bạc trước
Bao thời qua đội trăng mà mài kiếm long tuyền.
Đặc biệt là câu 3 và câu 4:
Thời lai đồ điếu* thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
………..
* đồ điếu: đồ là người đồ tể, chỉ Phàn Khoái, chiến hữu của Hán Lưu Bang; điếu là người đi câu, chỉ Hàn Tín, đại tướng của Lưu Bang. Cả hai giúp Lưu Bang xây dựng nhà Hán (dưới mắt Đặng Dung cả hai đều là bọn bần tiện, đồ tiểu tốt)
………..
– “Thời lai đồ điếu thành công dị”: Trương Phụ thoát chết là nhờ may mắn khi Đặng Dung nhảy lên thuyền cùng toán người nhái, vì nhìn không ra ai là Trương Phụ nên hắn đã thoát.
Sử liệu chép:
“Chuyện khó tin trong binh sử thế giới, trường hợp hy hữu này duy chỉ có trong quân sử Đại Việt. Khi vị tướng tư lệnh lại là cầm đầu toán người nhái cảm tử rất gọn nhẹ đánh thẳng vào sào huyệt kẻ tử thù. Việc tổ chức đã xong đợi ngày G sẽ đến. Cơ hội đến, vào tháng 9 được biết quân Trương Phụ vào đến Thuận Hóa, và kéo binh tập kết vào ngã ba sông này để tổ chức cuộc săn đuổi vua quan Hậu Trần đang đóng quân ở trên bờ. Quan Thái Phó Nguyễn Súy và quan Đại Tư Mã Đặng Dung nửa đêm chia quân đến đánh Trương Phụ. Quan Thái Phó Nguyễn Súy dùng thuyền nhẹ đánh nghi binh, giặc Minh trào về phía Nguyễn Suý, và thừa lúc đó Quan Tư Mã Đặng Dung lao mình xuống nước trước, hơn mươi chiến sĩ cảm tử quân lao theo sau. Họ bơi nhanh về phía thuyền lớn nhất, sáng nhất trên sông. Từ dấu hiệu của Đặng Dung, bọn họ leo lên được thuyền của Trương Phụ, dùng đoản đao thịt lẹ các tên lính trên sàn. Họ nhào vào tên mập mạp nhất, phương phi nhất và đã bắt sống tên này, lôi y xuống nước. Y la lên. Do vì không biết thường ngày tên Trương Phụ mặc quần áo gì, do chưa thấy mặt kẻ thù lần nào, nên họ đã bắt lầm. Thừa cơ Trương Phụ lập tức nhảy xuống sông lấy cái thuyền con mà chạy thoát.”
(Laiquangnam)(1)
– “Vận khứ anh hùng ẩm hận đa”: Người Đại Tư Mã, Tổng Tư Lệnh mà chịu dẫn quân đi thích khách kẻ chỉ huy địch, xưa nay trên chiến trường chưa hề có, đó là hành động anh hùng.
Xin lập lại nghĩa hai câu trên:
Thời đến bọn đồ tể, bọn câu cá cũng thành công dễ dàng
Thời qua anh hùng cũng đành nuốt hận
Chính câu 3 và câu 4 trong nguyên tác đã gây biết bao nhiêu cảm xúc cho người thời nay. Cụ Phan kế Bính năm xưa đã dịch:
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.. (Phan kế Bính )
Đặng Dung cũng cho Trương Phụ, người đã thắng ông, và cả đất nước của Trương Phụ cùng là xứ sở bần tiện cực kỳ.” (2)
Vị anh hùng của Việt Nam ta tài đức vẹn toàn như thế sao chúng ta không hát ca để vinh danh, mà lại đi ca tụng một ông “nước lạ” tầm thường!
Về chuyện các vĩ nhân tầm cỡ quốc tế như Nguyễn Trãi (Tiễn Cha) (3), Bà Trưng (Trả Thù Chồng) (4) Trần Hưng Đạo (Quên Thù Riêng), Lý Thường Kiệt (bản hùng văn Hịch Tướng Sĩ) (5). v.v.. chúng ta nên suy gẫm, trân trọng và vinh danh.
Kết
Việt Nam đã sống dưới “tầm phủ sóng”, dưới và trong cái “bóng mờ” của Trung Quốc quá lâu rồi. Họ hưởng trọn những tia nắng ấm, làn gió mát…; còn chúng ta, vì ở dưới, vì núp bóng nên chỉ “ăn theo”, “ăn tàn”, chỉ “hưởng sái”(*). Cái “sái” này cũng không thơm tho gì như ai cũng đã biết. Nếu không có chọn lựa, chẳng thà hưởng “sái” của Phuơng Tây chắc còn khá hơn nhiều! Tại sao không thoát ra?
Hàn quốc (Korea), Nhật (Japan) đã làm được, tại sao Việt Nam ta không?! Họ đã Thoát và bây giờ là Ông Chủ của công nhân Trung Quốc. Đất nước họ thế nào chắc ai cũng rõ!
Còn Việt Nam thì sao?
Đừng nghe những gì “nước lạ” nói
Mà hãy nhìn kỹ những gì “nước lạ” làm!
Các ngài “nước lạ” thâm lắm, đã viết ra “Tam Thập Lục Kế” đó. Nào là “rút củi đáy nồi”, “gắp lửa bỏ tay người” v.v… Khiếp lắm. Quân Vương (tiếng Ý: Il Principe, tiếng Anh: The Prince) cũng chịu lép vế. Họ chỉ nghĩ tới quyền lợi Đại Hán của họ thôi, đúng tin mà dẫn sói vào nhà. Hãy cẩn trọng!
Xin các bạn hãy Thoát Trung và trở lại với Việt Nam yêu dấu của mình! Tại sao vẫn chịu mang cái Vòng Kim Cô mãi thế? Phải tháo ra! Phải vượt lên, chứng tỏ Ưu Điểm riêng của Việt Nam! Hãy Thoát Trung!
Xin nói rõ, chúng ta nên phân biệt giữa Thoát Trung với Bài Trung. Thoát Trung nghĩa là chúng ta phải dùng trí óc phân tích cho kỹ, đừng theo “chủ nghĩa bầy đàn”, không phải cái gì của Trung Quốc là hít hà khen ngợi , cũng làm răm rắp theo. Phải chọn lọc, giữ lấy cái hay (nó là tài sản chung của nhân loại) và loại bỏ cái dở, cái gì không hợp với Việt Nam.
………………………
Tham khảo: Sử Ký Tư Mã Thiên (bản dịch của Nguyễn Hiến Lê), Đại Việt sử ký toàn thư, Laiquangnam, TS Phạm Trọng Chánh, Nguyễn Đức Ngọc Phương, Thi Viện, Wikipedia…
Ghi chú:
(*) Sái: dùng theo nghĩa “Sái thuốc phiện”: phần chất đen còn lại khi người ta đã hút hết thuốc (hút hết cái tốt, cái ngon)
(1) Luận Anh Hùng
http://www.art2all.net/tho/laiquangnam/lqn_luananhhung1.htm
(2) Cảm Hoài (Nỗi Niềm Hoài Bão) – Đặng Dung:
http://chimviet.free.fr/vanhoc/laiquangnam/lqn_DangDung_CamHoai_P1_056.htm
(3) Khi cha (Nguyễn Phi Khanh) bị giải sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã theo cha lên cửa ải và tỏ ý muốn đi theo hầu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khánh không đồng ý và khuyên ông nên về lo cứu nước báo thù nhà. Sau Nguyễn Trãi đã giúp Lê Lợi đánh tan quân Mình, giành độc lập cho đất nước. (Wikipedia)
(4) Do chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột hà khắc của nhà Đông Hán đối với người Việt tại Giao Chỉ đương thời, các Lạc tướng người Việt liên kết với nhau để chống lại nhà Hán. Trưng Trắc kết hôn với con trai Lạc tướng ở Chu Diên là Thi Sách, hai nhà cùng có chí hướng chống Hán. Khoảng năm 39-40, nhằm trấn áp người Việt chống lại, Thái thú Tô Định giết Thi Sách.
Trưng Trắc và các Lạc tướng càng căm thù, cùng Trưng Nhị mang quân bản bộ về giữ Hát Giang nay là xã Hát Môn huyện Phúc Thọ, Hà Nội. Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 2 năm 40, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị chính thức phát động khởi nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân các nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ. Quân Hai Bà đánh hãm trị sở Luy Lâu. Tô Định phải chui trụ đồng trốn chạy về Trung Quốc. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương (hay Trưng Vương). (Wikipedia)
(5) Hịch Tướng Sĩ – Lý Thường Kiệt
http://chimviet.free.fr/vanhoc/laiquangnam/lqnt071_namquocsonha.htm