Hình dạng người Đàng trong thường không to lớn. Mắt nhỏ, mũi tẹt, mặt mũi trông buồn thảm, nước da đen sạm hơn người Tàu. Theo Poivre, ngước da đen chẳng khác gì người đen ở Madagascar, tuy nhiên nói chung ít đen hơn người Cam Bốt, người Chàm và người miền núi.

Lịch sử Nam kỳ thuộc Pháp

Đàn bà ăn mặc không khác chi đàn ông, nghĩa là cũng mặc quần. (Thật ra Võ Vương đã bắt phụ nữ Đằng Trong mặc quần để khác với phụ nữ miền Bắc của Chúa Trịnh. Và để cho kín đáo, khoác thêm một chiếc áo như áo dài để che phần phía trước. Chiếc áo dài ấy phải chăng là nguồn gốc chiếc áo dài hiện nay của phụ nữ?)

Nhưng nếu muốn mô tả đầy đủ nhân dạng người Việt hơn cả theo nhân chủng học, có lẽ P. Cultru, giảng nghiệm viên đại học Sorbonne chi tiết hơn cả, xin dịch lược tóm:

Nguồn: http://gallica.bnf.fr/
Nguồn: http://gallica.bnf.fr/

“Đầu thường to, trán thấp, gò má cao, mắt xếch và nhỏ, lông mày phía trên thường sụp xuống, mắt đen và xếch, mũi xẹp xuống, tai vểnh, môi giầy, phía hàm dưới thường nhô ra, tóc đen, dầy và cứng. Người Annam thường chăm sóc kỹ lưỡng mái tóc. (Cái răng cái tóc là góc con người). Họ thường không để râu và nếu có thì kể từ tuổi 30 trở đi. Một đặc tính cá biệt trên khuôn mật người họ là xương gò má cao hẳn lên nên khuôn mặt là hình thoi thay vì hình bầu dục.Nước da mầu vàng sậm và càng trở nên đậm khi tiếp giáp gần với dân Chàm. Chiều cao trung bình không cao lắm, đàn ông là khoảng 1m60, đàn bà 1m50, chân cẳng khẳng khiu, cánh tay dài trung bình, nhưng vai và lồng ngực thường dẹp, bụng phình ra vì ăn nhiều gạo. Bàn tay dài và gầy. Bàn chân thường nhỏ và bẹt. Nhiều người nói đến ngón chân cái thường rẽ tách ra và được gọi là giống Giao Chỉ. Cái ích lợi của ngón chân rẽ là như một thứ kìm vậy. Sức bắp thị họ kém, hai người đàn ông Việt Nam chỉ bằng sức môt người Tây Phương. Nhưng sự dẻo dai thì cao. Những người thợ gặt, thợ đập lúa mà công việc rất vất vả, nhưng họ có thể làm việc mà xem ra không biết mệt nhọc Những người kéo xe với tốc độ 12 km/giờ là chuyện bình thường. Họ đẻ nhiều, trông trẻ, nhưng lại chóng già và chết yểu, thường ở tuổi 60 là cùng.”

(P. Cultru, “Histoire de la Cochinchine Francaise, Des origines à 1883”. Librairie Maritime & Coloniale, 1910, trang 45).

Đàn bà thường chăm chỉ, sinh động hơn đàn ông. Đàn ông thường hèn nhát, lười biếng. Nhưng cả hai đều để ngón tay dài. Một dấu hiệu đặc biệt được coi là sang trọng và giàu có. (Trang 89).

Poivre đã dành nhiều trang để nói về vua nhà Nguyễn. Chẳng hạn mua hàng của Poivre mà kéo dài thời hạn, không chịu trả. Đồng thời đòi thêm những đôi giầy của người Âu Châu, những cúc áo của cổ tay bằng kim cương, bộ tóc giả và vải vóc dệt từ bên Tây Phương hoặc những bông hoa bàng vàng hoặc bạc và nhiều vật dụng khác. Việc hứa trả nhưng với điều kiện để các quan lo việc giám định xem xét và định giá. Poivre chỉ mong muốn có được một giá phải chẳng và lo sợ việc thương lượng với một giá rất thấp so với các hàng hóa mà họ đã mua của các người ngoại quốc khác. Ông chờ đợi cả hai tháng trời, nhờ cậy thông dịch viên và các quan thân cận với nhà Chúa mà kết quả hầu như vô hiệu.

Ông tuyên bố, lần đầu tiên trên đời ông bị lừa. Ông gọi tất cả là một bọn ăn cướp. Chỉ trừ có một vị quan mà ông coi là người lương thiện. Ông viết:

“Je ne sais pas à qui me fier. Je ne trouve partout que voleurs.” (Tôi không còn biết tin tưởng vào ai, tôi chỉ thấy toàn một bọn trộm cắp. (Trang 42).

Ông liệt kê một danh sách những tài sản bị giữ lại. Tổng số tiền là 71381. 18s.9d. (Trang 65). Một danh sách khác là những hàng hóa bị tịch thu bởi nhà đoan ở Tourane và chở về kho của vua. Trị giá 4513 16s và 7d. (Trang 70). Tính ra tiển vốn thu được, sau khi nhà vua đánh thuế trên những món hàng đã bán, ông thu về một số tiền không đủ để mua các hàng hóa đó lúc ở bên Pháp.

Để bù số tiền lỗ lã phải trả lại vốn cho công ty, ông đã giữ lại 11 lô hàng vốn là quà tặng dành cho các quan và nhà vua còn để lại ở Tourane, chưa kịp chuyên chở về Huế.

Poivre cũng đã tiết lộ lối sống rất khác biệt của một vài vị truyền giáo so với phần đông các vị khác. Đó là trường hợp của một vị giáo sĩ gốc người Bồ Đào Nha, một nhà toán học làm cố vấn bên cạnh nhà vua. Vị thứ hai, gốc người Đức là một vị thầy thuốc.

Đặc biệt, vị tu sĩ làm thầy thuốc có một đời sống hết sức xa hoa, lộng lẫy mà phải thấy tận mắt mới tin được. Poivre được mời đến ăn một bữa tiệc tại chỗ ở của tu sĩ này. Ông mặc một cái áo màu đỏ, mũ đội hình vuông, chung quanh có khẩn nhiều mảnh vẩy bằng bạc và đá quý. Chung quanh ông có khoảng từ 30 đến 40 người hầu cả đàn ông lẫn đàn bà. Ông Poivre đã được dẫn đi coi cả khu ở của vị tu sĩ này và được đãi một bữa ăn hậu hĩ dành cho các nhà quyền quý.

Một lối sống như thế quả thực không phải là một lối sống của một nhà truyền giáo. Và những giáo dân tân tòng khi nhìn thấy cuộc sống của vị giáo sĩ này liệu họ có còn giữ được đức tin mong manh của họ không? (Trang 26).

Trong khi đó, Poivre đã có dịp đến thăm vị giám mục người Pháp cai quản địa phận Huế tên là Armand-Francois Lefèvre, de Calais. (Sau này chết ở Cam bốt ngày 27 tháng 3 năm 1760). Vị giám mục này đúng là một vị tu hành, sống xa lánh sự nhộn nhạo của thành phố. Ông sống trong một túp nhà tranh, được trưng bày không dư thừa. Ông đã tiếp Poivre với tất cả tâm tình của một người Pháp với một người đồng hương. Cùng sống trong căn nhà này, còn có ba người khác sống chung. Họ náo nức nghe những tin tức từ tổ quốc của họ và bày tỏ sự nhiệt thành hăng say phụng sự tôn giáo của họ tại nơi đây. Họ đã làm một bữa cơm đãi khách đầy tình nghĩa bạn bè và rộng lượng, một chút gì đó có hương vị quê hương nước Pháp.

Các giáo dân quanh đó nghe tiếng đã đến đông đủ để giúp đỡ giám mục của họ tiếp khách. Họ mang những món quà nhỏ đến để giúp giám mục tiếp đón chúng tôi. Đó là những cử chỉ muôn vàn yêu thương. Tôi chỉ thấy nơi vị giám mục này sự đơn giản và nghèo túng không thể không làm người ta nhắc nhở đến vị giám mục đầu tiên của tôn giáo chúng tôi. Ở nơi đây, người chủ chăn được đàn chiên biết đến không phải vì một tòa giám mục tráng lệ huy hoàng, nhưng ở chỗ nó tách rời ra khỏi mọi của cải vật chất, một đức hạnh vốn là linh hồn của tôn giáo dạy dỗ đàn chiên và rao giảng phúc âm mà không cần đến một lời nói của vị giám mục. (Trang 13)

Poivre kết thúc chuyến du hành trong sự thất vọng và cay đắng

Trước khi Poivre xuống tàu về lại nước Pháp, ông đã nhận được thư của vua xứ Đàng Trong gửi cho vua nước Pháp. Lá thư này của nhà vua đã được Cơ mật viện nhờ giám mục M.Lidur dịch ra tiếng Pháp. Kèm theo lá thư là danh sách quà tặng của vua Đang Trong gửi tặng vua nước Pháp. Vị giám mục đã đưa lá thư đã dịch cho Poivre và nói rằng; Việc dịch thuật đã tôn trọng một cách tỉ mĩ ý nghĩa của bản gốc lá thư. Lời lẽ trong thư là cực kỳ trang trọng và cũng không kém giả dối. Xin trích đoạn:

“Après avoir bien réfléchi sur les grâces et les faveurs semblables aux montagnes élevées et aux eaux profondes dès à présent et l`avenir nous conjurons et demandons que ce royaume-ci avec le royaume de France soient en joye et soient donénravant comme un, afin que les deux Royaumes lient amitié et soient bien unis et que les grands faveurs que nous avons recues soient imprimés longtemps et des milliers d`années dans notre coeur. Nous pensons que l“illustre prince nous a déjà donné un présent comme le fruit qui s`appelle Đao, mais nous ne savons que prendre pour comme le fruit li (ou pêche) nous envoyons avec respect un vil présent afin qu`on se fie bien à notre coeur. Par cette présente, nous respcetons votre Majesté.” (Trang 71)

(Sau khi đã suy nghĩ chín chắn về những ân huệ và sự ưu đãi cao tựa như núi và sâu thẳm tựa như nước mà từ đây về sau chúng tôi thề nguyền và mong đợi vương quốc này và vương quốc Pháp từ rày về sau như thể là một, để hai vương quốc chúng ta nối kết tình bạn bè trở nên như một và những sự ưu đãi lớn lao mà chúng ta đã nhận được thì sẽ in sâu vào lòng chúng ta lâu bền trong vài ngàn năm trong trái tim của chúng ta. Chúng tôi tưởng nghĩ đến vị hoàng tử danh tiếng đã tặng một món quà cho chúng tôi được gọi là những quả đào, nhưng chúng tôi chỉ biết rằng có một thứ quả có tên là li (hay đào), chúng tôi hết lòng quý mến món quà nhỏ bé đó và ghi khắc trong lòng chúng tôi. Và đây là những món quà, xin trân trọng gửi đến Hoàng Thượng).

Lời lẽ thì tốt đẹp như thế. Nhưng sau đó, tại Hội An, Poivre gặp hai vị quan coi về thuế vụ bên cạnh có người thông dịch viên tên Miguel cho hay rằng nhà vua đã miễn mọi khoản thuế có giấy viết tay. Nhưng hai vị quan này cũng đòi 3000 quan tiền thuế. Poivre nghĩ bụng làm gì có hàng nhiều đến nõi thuế 10% bằng 3000 quan. Phần hàng hóa hiện nay đang tồn trữ trong điện mà nhà vua đã mua được 2 vi quan thuế vụ định giá là 1800 quan. Như vậy, theo họ thì Poivre phải trả 1200 quan tiền thuế. Trong khi đó, Poivre biết trị giá số hàng hóa trong cung điện là 6000 quan theo hoá đơn. Thật quá bất lương và bất công. Dù phản đối cuối cùng rồi Poivre cũng trả khoản nợ thuế 1200 đồng để được yên thân. (Trang 73).

Trong chuyến tàu thủy trở về Pháp. Poivre đã mua thử 6 vại mật mía, nặng chừng 50 kilo. Khi khô, chắc mật mía mất đi một phần tư trọng lượng. Ông cũng mua thử một số mây, gồm 6 loại khác nhau mà xứ này sản xuất được rất nhiều. Poivre cũng mua nhiều gỗ tốt như gỗ sồi để làm sườn nhà hoặc để đóng đồ gỗ. Gỗ ở đây vừa chắc, vừa nhẹ, thớ đẹp hơn gỗ của Ấn Độ.

Đồ lụa của Việt Nam thì đẹp và có giá hơn của Tàu rất nhiều. Thường nhập từ Đàng Ngoài vào, khổ thường hẹp lại nhẹ vì trời ở đây nóng, hơn nữa phần đông dân chúng lại nghèo, không có tiền mua.

Trong số những người mà Poivre hận ghét, có viên thông ngôn Miguel nói ở trên. Ông này được người Pháp gửi đi học ở Pondichéry trong hai năm. Sau đó theo đạo, trở thành người công giáo. Khi mới gặp Poivre thì quỳ trước mặt Poivre để bày tỏ lòng biết ơn. Sau đó, ăn cắp 300 quan của Poivre. Rồi lại đủ can đảm đòi thêm vài trăm quan về công khó thông dịch của ông ta. Poivre viết:

“Il se jette à mes pieds, avoue publiquement les larmes aux yeux qu`il me doit tout ce qu`il est et se félicite du nouveau bonheur qu`il a de me revoir dans son pays pour me prouver sa reconnaissance.” (Trang 77).

(Ông ta quỳ gối dưới chân tôi, nước mắt chảy và thú nhận công khai những gì ông có được ngày hôm nay là do tôi và cho là sung sướng khi được gặp lại tôi trên xứ sở của ông và để chứng tỏ lòng biết ơn của ông đối với tôi).

Nhưng sau đó thì lại nịnh bợ các quan và nhà vua và nói xấu, xấc xược đủ điều về các thừa sai cũng như phái đoàn của Poivre. Vai trò của thông dịch viên rất quan trọng, vì họ có thể thiên vị bên này bên kia.

Phần các quan thì sợ rằng Poivre sẽ không mang lá thư của nhà vua của họ về Pháp cũng như các quà tặng chẳng đáng gì.

Cuối cùng thì lá thư và quà tặng của vua nhà Nguyễn cũng được đưa lên tàu. Các quan nhân danh nhà vua đã tặng cho Poivre 20 con gà và hai con heo. Sau đó họ vội vã rời tàu và không đụng đến chút đồ ăn nhẹ mà Poivre đã mời họ.

Phần Poivre đã cho viên thông dịch viên lên tàu và đã nhốt ông lại dưới hầm tầu mà không một ai hay biết. Poivre đã kết thúc cuốn hồi ký bằng vài dòng vắn gọn:

“Buổi chiều, chúng tôi đã quyết định nhổ neo. Nhưng vì gió thổi ngược. Chuyến đi đành phải hoãn tới ngày hôm sau.” (Trang 78).

Trước khi chấm dứt Hồi ký của Poivre, xin trích dẫn một số nhận xét của Robert Kirsop, người Anh, đã nói ở trên xem ra không có một chút thiện cảm gì với phái đoàn của Pháp với một sự miệt thị rõ ràng do sự đố kỵ giữa hai bên:

orientalrepertory241“Khi tới nơi Le Poivre đã vội vã đến Triều đình trong cung cách oai vệ với các cận vệ và đoàn tùy tùng và đã thực hiện ở đó một sự xuất hiện rất huy hoàng. […] Ông đã dâng lên vị Chúa bức hình Quốc Vương nước Pháp trên quốc huy, một cặp ngựa nhỏ đáng thương, một cặp gương soi khổ lớn, một kính thiên văn và nhiều vật tầm thường khác. (…) Thực sự nhờ các tặng phẩm của họ với vị Chúa, và sự ân cần thường xuyên đối với ông, vị Chúa đã miễn cho họ mọi lệ phí hải cảng và luôn luôn đối sử với họ cực kỳ lịch sự. Vì tính dễ dãi này của Chúa Vương, đã dẫn dắt Le poivre đến việc coi nhẹ và bất chấp quan Thượng Thư của vị Chúa đã khơi động sự bực bội của họ. […] Họ cũng thấy ông Le Poivre lúc nào cũng mơn trớn nhà ngữ học, gần như thể làm anh ta trở thành tình nhân của ông. […] Và sau cùng, vị Chúa mệt mỏi và muốn họ ra đi. Và khi đó Le Poivre bị thất vọng một cách lớn lao, tìm cách ép buộc trên một số đề nghị đáng tởm, nhằm giúp người dân nước ông được chiếm ngụ một mảnh đất nhỏ và vị Chúa đã lạnh lùng giáng xuống ông ta một sự từ khước. […] Họ đã không khám phá ra sự đánh lừa của nhà ngữ học cho đến lúc gần ra đi, và khi họ nhận thấy rằng anh đã chơi khăm và lừa dối họ, trong hầu hết mọi việc đã được ủy thác cho anh ta, vào lúc khởi hành, họ mời anh ta lên tàu với một số lý do giả vờ cần giải quyết các bản Kiểm Mục, và bằng vũ lực bắt anh ta mang đi. […]  Và các lực lượng đã được phái đến để chặn con tàu lại, nếu nó có ghé vào bất cứ nơi nào trên bờ các bờ biển của họ. Trước thời điểm này, người Đàng Trong chưa hề biết đến sự khác biệt giữa các người Âu Châu. Trong lá thư của vua nước Pháp, họ được cảnh giác rằng không nên có bất kỳ buôn bán nào với Anh Quốc hay Hòa Lan, điều này đã góp phần vào sự nghi ngờ về sự thành thật của họ. […] Họ nghĩ không làm gì hơn là tống xuất tất cả các giáo sĩ Thiên Chúa giáo ra khỏi xứ sở. […] Ngoại trừ một người Đức, người dậy môn vật lý được giữ để phục vụ gia đình của Chúa. Phần lớn các nhà thờ của họ bị san thành bình địa và các sách vở giấy tờ của họ đều bị tiêu hủy. Các giáo sĩ người Pháp thì nổi bật với sự canh gác của các binh sĩ, đi kèm họ tới Hội An, trong khi số còn lại tự do đi xuống đó cùng với vị thuyền trưởng Bồ Đào Nha”.

(Robert Kirsop, “Kẻ đã cư trú tại Đàng Trong năm 1756, Một số tường trình về Đàng Trong”, bản dịch của Ngô Bắc, Gió-o. com)

Saigon ngày xưa dưới mắt John Crawfurd

Nguoofn: https://archive.org
Nguoofn: https://archive.org

John Crawfurd, Journal of an Embassy, From the Governor-general of India the courts of Siam and Cochin China” , NXB London, H. Colburn and R. Bentley, 1830, từ trang 299-475

Thời gian John Crawfurd đến Việt Nam là dưới đời vua Minh Mạng, lên ngôi vua từ năm 1820. Chính sách của Minh Mạng đối với người ngoại quốc tỏ ra nghi ngờ và khắt khe hơn thời Gia Long.

Thành phần phái đoàn của Crawfurd may mắn có thuyền trưởng Dangerfield, hạm phó Rutherford và ông Finlayson, bác sĩ. Dangerfield được chỉ định làm phụ tá cho John Crawfurd và thay thế ông trong trường hợp có tai nạn. Dangerfield còn là một nhà thiên văn Học, chuyên viên đo đạc bản đồ và chuyên viên địa chất. Ông Finlayson có mặt trong phái đoàn với tư cách một sĩ quan quân y và chuyên viên thảo mộc cũng như động vật học. Chiếc tầu của phái đoàn tên là John Adam trọng tải 380 tấn.

Trong Hồi ký, ông Crawfurd chẳng những ghi ngày tháng mà còn đi đến đâu ghi rõ tọa độ, kinh tuyến, nhận xét từng sự việc với một cái nhìn khách quan và rộng lượng hơn ông Poivre ở trên. Ông cùng với các ông Finlayson, ông Rutherford cùng đoàn tùy tùng đã ghé đảo Pulo Condore (gồm tất cả 12 đảo lớn nhỏ) vào ngày 22 tháng 8.

Đổ bộ lên đảo, ông bất ngờ khám phá ra một cơ xưởng của người Anh đã rơi vào tình trạng hoang phế. Chỉ còn để lại dấu vết nền nhà và gạch đá cũng như mãnh vở của đồ sứ. Theo đó được biết cớ sở này đã bị phá hủy từ 118 năm về trước, vào năm 1702,

Đây là một di tích lịch sử sớm nhất về sự có mặt người Anh tại đảo Phú Quốc.

Đi đến một làng gần đó, phái đoàn Anh còn thấy một thanh niên đang chơi đá banh trên bãi cát. Điều này càng chứng tỏ sự có mặt của người Anh trên đảo đã có từ lâu. Và thanh niên này đã dẫn phái đoàn đến gặp người đứng đầu của đảo này. Người đón tiếp phái đoàn có tên là Cham-Kwan-Luang, một người rất khả ái và hiếu khách. Không nghi ngờ và không tò mò hỏi quanh co như thói quen người bản xứ, ông đã mời tất cả phái đoàn về nơi ông cư ngụ và ông chỉ yêu cầu viết trên giấy chứng tỏ rằng Crawfurd có ghé qua đảo và để sau này, ông có dịp đưa ra cho các phái đoàn Anh khác đến sau biết.

Khi phái đoàn quay lại tàu, ông chúa đảo đã tặng cá tươi, rùa rồi trứng cũng như rau và hoa quả. Khi trả tiền,họ ngần ngại không lấy và cuối cùng chỉ vui vẻ nhận quần áo và đồ dùng của người Tây Phương.

Đảo này thật ra là nơi trú ẩn của các băng đảng cướp chống lại Campuchia và Nam Việt. Dân số trên đảo khoảng 800 người đều là người Việt Nam. Họ trông đều khỏe mạnh chứng tỏ khí hậu ở đây tốt. Trừ một số người bị rỗ mặt vì trước đây mắc bệnh đậu mùa. Họ có trồng ít lúa. Phần đông bắt rùa, đánh cá, làm cá khô để đổi lấy quần áo và gạo từ Sai gon. (Crawfurd. ibid., trang 299-308).

Ấn tượng tốt đẹp đầu tiên mà phái đoàn Anh khi đến Poulo Condor chắc để lại kỷ niệm sâu xa nơi họ. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ đời sống vật chất trên đảo cũng như họ đã từng tiếp xúc với các nước Tây Phương sớm nên không có những cảnh tượng quê mùa, hoặc quá tò mò như trường hợp của Poivre khi họ đến Huế trước đây.

Sau đó ngày 24-8, tàu của Crawfurd trực chỉ St James (Vũng Tàu). Họ bỏ neo ở đây và chờ đợi được giấy phép đồng thời khai báo về tên tầu, danh sách thủy thủ đoàn, có bao nhiêu súng ống, đạn dược trình lên vị Tổng trấn ở Saigun. (Lúc đó Lê Văn Duyệt còn làm Tổng trấn lần thứ hai (1920-1932). Và họ cho biết, chỉ cần một ngày hoặc một ngày rưỡi thì thư gửi lên Tổng trấn Gia Định sẽ được trả lời. Cũng tại nơi đây, Crawfurd gặp phu nhân và các cô con gái của bà ta, vợ của người đứng đầu ở đây mà Crawfurd đã dùng lời lẽ trân trọng đẻ nói về vị phu nhân này:

“Here, we found a respectable-looking middle-aged woman, the chief’s wife, and three young and comely girls, his daughters. The ladies did not appear by any means abashed of discomposed by the appearance of strangers.” (Crawfurd, ibid., trang 314)

Theo sự quan sát của sứ giả Anh thì người dân ở vùng Vũng Tàu có chút văn hóa, có tụ họp chung quanh phái đoàn vì tò mò, nhưng với một thái độ chừng mực vừa phải. Đời sống của họ khoảng 300 gia đình với 1000- 2000 dân xem ra tương đối khá. Đàn ông thường làm nghề chài lưới, trong nhà thường có đàn lợn, đàn gà ít ra cho thấy họ không đến nỗi túng thiếu nghèo nàn.

Đi mất một đêm thì sáng hôm sau phái đoàn, ngoài Crawfurd còn có ông Finlayson và 33 nhân viên khác tới Saigun.

Dưới mắt của Crawwfurd thì Saigun (Saigon theo cách viết của Crawfurd) còn là những thửa ruộng lúa ở hai bên bờ sông và có nhiều làng mạc ở rải rác. Và ông nhận thấy đã có một con đường hai bên trồng cây dẫn vào thành phố. Họ chờ đợi để được xếp đặt chỗ ở, sau đó được chở thuyền tới một nơi dành cho buổi tiếp đón này. Nơi tiếp đón là một tòa nhà lớn có cổng chào phía ngoài và có vô số người nhộn nhịp đón tiếp. Có 20 lính dàn chào và lính canh cổng để giữ trật tự vì có nhiều dân chúng chen chúc tò mò xem mặt họ. Khoảng một giờ trưa có hai quan chức cao cấp tới để bàn thảo với phái đoàn. Những cuộc bàn thảo này kéo dài cả ngày trời, từng chi tiết nhỏ nhặt đến không cần thiết. Phía quan Tổng trấn có gửi thư cho phái đoàn cho hay họ có tự do muốn đi đâu thì đi và họ sẵn sàng cung cấp voi, ngựa, hoặc thuyền tùy theo nhu cầu của phái đoàn. ((Crawfurd, ibid., trang 318)

Saigun nằm ở vị trí của một con sông nhỏ, dài khoảng ba dậm tính từ dinh quan Tổng Trấn với nhà cửa cất lộn xộn. Hai bên bờ sông được trồng trọt. Con sông Saigun có nhiều nhánh sông và có nhiều cây cầu bắc qua một cách cẩu thả. Cũng có một khu phố buôn bán tương đối rộng rãi và sạch sẽ. Các món hàng chính được bày bán là đồ gốm của Trung Quốc, các loại lụa, nhất là lụa từ ngoài Bắc Kỳ cùng với các loại trà cũng được gửi từ Bắc vào. Và còn có vô số gà, vịt, ngỗng cũng như heo đực. Các cửa hàng ấy thường do phụ nữ đứng bán.

Và một lần nữa được đọc nhận xét tích cực của Crawfurd khen phụ nữ Việt Nam:

“Judging from the specimen we saw to-day, The Cochin Chinese woman appear to be well and becomingly attired. Many of them were much fairer in complexion than we could have expected, and some were handsome, making due Allowance for the peculiarity of their features, or what, at least, is considered such, according to our notions of beauty.” (Crawfurd, ibid., trang 329).

Nhận xét của phái đoàn nước Anh là phía những người bạn của xứ Đàng Trong là quá trang trọng, tỉ mỉ và phô trương. Chẳng hạn viên quan đã mở lá thư của viên Toàn quyền Anh (Governor-general) ở Ấn đã xem xét tỉ mỉ chữ viết, soi rọi lá thư và hơn hết xem xét dấu triện của toàn quyền Anh. Xem xét xong lá thư đến việc phải dịch từng câu ra chữ Hán Nôm (Cochin-Chinese). Không hài lòng, họ yêu cầu dịch ra chữ Hán.

Việc dịch thuật là vô cùng khó khăn, vì không có người biết tiếng Anh. Người Pháp phải đứng ra làm công việc dịch này. Đó là ông Diard thường đi bên cạnh phái đoàn. Và làm sao mà những thông dịch viên có thể làm vừa lòng mọi người? Nhưng cũng giải quyết xong. Nhưng họ lại phản đối có nhiều câu trong thư không thể nào trình lên hoàng thượng xứ Đàng Trong được, vì nó đi trái với luật pháp của họ.

Chẳng hạn câu:

“His Excellency sends certain presents in token of his profound respect and esteem for His Majesty the emperor of Cochin China.” (Crawfurd, ibid., trang 325).

Vị quan đề nghị câu trên phải đổi lại là: “I send your Majesty certain presents, because you are a great King.”

Bởi vì Hoàng đế Annam trên thực tế còn chiếm lãnh phần lớn lãnh thổ Cambodia cũng như nước Lào, nắm chủ quyền các nước ấy nên phải thêm vào tước hiệu là Đại Hoàng đế.

Phái đoàn được trọng đãi và do các người phục dịch người Ấn Độ và những người hầu gốc Tầu. Phần lớn họ là con cháu những người Tàu đã ở đây lâu đời và có khoảng từ 3000 đến 4000 người Tàu như vậy. Người Tàu có ba bốn ngôi chùa tại Saigun. Những ngôi nhà của người Tàu thì có nhiều nhà như những dinh thự rộng rãi.

Phần chúng tôi rất hài lòng về buổi đi thăm viếng này.

Hifnh quan vawn, quan vox nhaf Nguyeexn duowsi mawst Crawfurd. sau trang 404 , Journal of an Embassy From the Governor-general of India the courts of Siam and Cochinchina,
Hình quan văn võ nhà nguyễn duuosi mắt Crawfurd. Sau trang 404 , Journal of an Embassy From the Governor-general of India the courts of Siam and Cochinchina,

Cuộc yết kiến Tổng trấn Lê Văn Duyệt, 2 tháng 9

Ngài Lê Văn Duyệt ngồi trên một cái bục cao có trải chiếu hoa. Chúng tôi tiến gần tới đằng trước ngài và cúi đầu chào. Sau đó chúng tôi được chỉ định ngồi ở phía tay phải của ngài. Phía tay trái có một vị khác ngồi trông dáng uy nghiêm khoảng chừng 70. Phần những người khác thì ngồi ở phía sau lưng chúng tôi. Trong số đó có Ong-kw beng, vị võ quan đã trao đổi về thương mại với chúng tôi. Các quan khác thường ăn mặc sang trọng với các hàng lụa. Ngài Tổng trấn xem ra lơ là với việc ăn mặc. Ông ăn mặc giản dị với chiếc áo choàng bằng lụa mầu đen và một chiếc khăn quấn cùng màu.Ông là một thái giám, nhưng nếu không dược cho biết trước, có lẽ chúng tôi không nhận ra. Ông không có râu như các vị quan khác dù râu của họ không rậm. Giọng ngài yếu và nhỏ, nhưng vẫn đủ nghe.

Nhân vật này đã có những đóng góp đáng kể trong cuộc chiến của xứ Đàng Trong đã qua. Gương mặt của ông sáng sủa và thông minh. Thân hình tuy thấp, nhưng mảnh mai, trông linh hoạt và không có gì là bất thường. Nhưng chứng đau răng đã làm ông mất một số răng.

Ông bắt đầu hỏi thăm chúng tôi và cuộc hành trình của chúng tôi kéo dài trong bao lâu. Sau đó, ông đi ngay vào vấn đề chính. Ông nói nước chúng tôi hoan nghênh việc buôn bán với nước Anh, phù hợp với luật lệ của xứ tôi; việc nhập cảng không gặp khó khăn gì, nó cũng được áp dụng như các quốc gia khác.

Tôi đã trả lời đó cũng là những mong muốn không gì khác hơn của ngài Toàn quyền chúng tôi ở Ấn Độ. Và nói thêm ràng nếu xứ Đàng Trong buôn bán với nước Anh thì cũng sẽ chịu tuân theo luật lệ của chúng tôi và nếu chúng tôi đến xứ Đàng Trong, chúng tôi cũng sẽ thi hành tương tự.

Ngài nói thêm, vua chỉ viết thư cho vua nên vua nước Anh phải viết thư cho vua xứ Đàng Trong.

Sau đó, phái đoàn Anh đã dâng một số lễ vật của Toàn quyền Ấn Độ. Sau đó một thư ký đã đọc danh sách các món lễ vật bẳng tiếng Trung Hoa. Ngài tổng trấn nói việc thương thuyết đang trong vòng thương lượng nên không tiện nhận các lễ vật, nhưng hy vọng nhiều thương thuyền Anh còn cập bến Saigun sau này, lúc ấy nhận lễ vật cũng không muộn.

Phần phái đoàn Anh không phản đối việc ấy, nhưng cũng gây một cú sốc vì nó khác với thái độ của xứ Xiêm La cũng trong một hoàn cảnh tương tự.

Phần lá thư thì vị Tổng trấn đã không mở lá thư của ngài Toàn quyền Ấn Độ và lễ phép trao trả lại cho phái đoàn Anh.

Cuộc đàm phán coi như đã xong, phái đoàn được mời dùng trà và sau đó tham dự buổi đấu giữa voi và hổ mà dưới mắt các người ngoại quốc là mọi rợ. Con hổ đã bị rút móng và mồm nó bị khâu lại, lưng bị buộc vào cột bằng một sợi dây thừng dài khoảng gần 30 mét. Có khoảng 46 con voi đực to lớn đối diện con hổ. Dù bị con voi ném xa đế 25 bộ, con hổ vẫn phóng lên đầu voi tấn công thẳng vào quản tượng. Con voi hoảng sợ, kêu rống trong lúc quay đầu bỏ chạy không ai có thể kéo nó lại đâu trường; con hổ đuổi theo đên khi hết dây. Một lát sau hai viên quan dẫn một người đàn ông bị trói tay vào đấu trường đến trình quan Tổng trấn. Đó chính là người quản tượng bất lực để voi thua chạy. Người chăn voi bị một người ngồi đè lên cổ và vai, người khác đè trên chân, một toán lính thay phiên nhau đánh phạm nhân 100 trượng tre ngay tại chỗ, rồi khiên ra ngoài. Trong lúc đó quan Tổng trấn vẫn bình thản tiếp tục thưởng ngoạn trận đấu giữa hổ và voi.

Vua Thành Thái ngự xem trận đấu voi và hổ. Ảnh: Flickr.com
Vua Thành Thái ngự xem trận đấu voi và hổ. Ảnh: Flickr.com

Cái cảnh kinh hoàng khi con hổ bị 10, 12 con voi quật chết cũng đã được mô tả đầy đủ trong chuyến hành trình trước đây của Pierre Poivre tại Huế nên xin khỏi nhắc lại. Ngài Tổng Trấn còn có thói quen chơi đá gà, mỗi tháng hai lần.

Trong thời gian ngắn còn lưu lại Sài gun, phái đoàn Anh đã có dịp nhận xét về Saigun. Saigun cách bờ biển chừng 50 dặm và chia ra hai khu vực, cách nhau khoảng ba dặm. Pingeh.

[Bến Nghé. Theo Đại Nam Quốc Âm tự vị của Huỳnh tịnh Của, Saigon, 1895, trang 47, Bến Nghe là bến ở Vàm sông Kinh vào Chợ Lớn, cũng hiểu chung là đất Bến Thành; có kẻ nói là Bến tắm trâu, có kẻ nói là vùng sấu ở, không lấy đâu làm chắc.]

Chỗ ở của dinh Tổng Trấn nằm ở phía Tây bờ con sông lớn. Saigun nằm cạnh một con sông nhỏ là một trung tâm buôn bán và là nơi trú ngụ của người Tàu cũng như của một số con buôn. Chỉ có tàu nhỏ mới qua lại được thôi. Chiều rộng của cả hai khu vực gần bằng nhau, nhưng về dân số bao nhiêu thì không biết được. So với Bang kok mà chúng tôi đã có dịp viếng thăm thì Bang-kok buôn bán nhộn nhịp hơn Saigun. Cuộc sông ở Bang-Kok cũng dễ chịu hơn ở Sàigun. Khu chợ cũng cung cấp đầy đủ các đồ cần thiết cho nhu cầu và giá cả thường rẻ. Có bán đầy đủ các gia súc đủ loại. Cá đủ loại còn tươi được bầy bán tại chợ Saigun.

Sau đó, phái đoàn Anh đã đi ra Tourane.

Saigun, Bến Nghé nhìn từ góc độ của một đại tá Pháp trong cuốn “Annam Et Indo-Chine Française: I. Esquisse De L’histoire Annamite. Ii. Rôle De La France En Indo-Chine – Primary Source Edition”

(Tác giả: Colonel Édouard Jacques Joseph Diguet – De L’Infanterie colonial, nxb Augustin Challamel, Editeur, 1908)

Trong lời mở đầu của cuốn sách, tác giả viết rằng cuốn sách là tập trung những hiểu biết do vốn đọc, nhưng quan trọng hơn chính là sự quan sát tại chỗ cá nhân của tác giả về một sắc dân độc đáo đối với toàn thế giới. Tác giả, ngoài vốn liếng tài liệu phong phú, còn có một sự ưu ái và một sự trân trọng đặc biệt đối với Việt Nam nên không thể nói đến có sự kỳ thị hay thiên lệch.

Trong lời kết tác giả nhận định ngay từ hồi đó, cách đây hơn hai thế kỷ. đã có mối lo ngại về sức mạnh khủng khiếp của người Trung Hoa, một kẻ thù từ bên ngoài đe dọa trên đất liền và vùng biển của Việt Nam và nhắn nhủ người Pháp phải có một thái độ thích hợp đối với Việt Nam. Tác giả viết như sau:

“Ou bien, nous perdrons l’Indo-chine ou bien nous rendrons aux Annamites, don’t nous fait l’amitié à tout prix, le rang social qui leur revient comme individu, l’exercice réel de l’administration et de la justice de leurs concitoyens et la tranquilité que leur a enlevée notre système fiscal. Et telle est ma conclusion. E. Diguet.” (Trích Lời mở đầu)

(Hoặc là chúng ta sẽ mất hết xứ Đông Dương hoặc là chúng ta phải trả cho người An Nam bằng mọi giá dựa trên cái tình bè bạn của chúng ta, chúng ta trả cái quyền làm người của một cá nhân trong xã hội về mặt hành chánh cũng như công bằng xã hội của một người công dân do chính sách tài chánh của chúng ta. Và đó là kết luận của chúng tôi.)

Cuốn sách đã đề cập tới mọi vấn đề như: quân sự, hành chánh, giáo dục, thuế má, sự phát triển kinh tế, sự giao tiếp giữa người Pháp với người Việt Nam bằng những con số, bằng chứng từ.

Trong bài viết, không thể có điều kiện đề cập đến từng vấn đề, từng chi tiết trong cuốn sách. Nhưng chỉ xin rút ra những nét chính cho thấy sự sáng suốt và sự hiểu biết của tác giả mà một số người Pháp thực dân đã không nhận ra được. Đó là những nét đặc trưng của tác phẩm.

Theo tác giả, muốn bảo vệ Đông Dương trên đất và trên biển thì bằng mọi giá phải giữ cho bằng được con đương huyết mạch Saigon-Cap St Jacques như là một điểm tựa chính cho vùng Viễn Đông. Để mất tuyến phòng thủ Saigon-Vũng Tàu, người Pháp mất khả năng tự vệ và tấn công và sẽ đưa đến tình trạng cả xứ Nam Kỳ bị chiếm đóng. Con đường thủy từ Cấp về Saigon là con sông Saigon và sông Soirap. Khi các con sông này có những thủy lôi định vị hay lưu động. Đồng thời đóng cừ ở những vị trí chiến lược sẽ bảo đảm không cho kẻ thù xâm phạm. Kẻ xâm lược còn có thể xử dụng con đường sông Cửu Long hay Vàm Co để tiến về Sài gòn. Nhưng việc đổ bộ thực sự không dễ dàng gì. Chưa kể còn có một lực luojng phong thủ lưu động do thủy lôi và tàu ngầm. (E.Diguet, ibid., trang 167)

Phần kế tiếp, ông nói về việc bảo vệ xứ Bắc Kỳ do tiếp giáp với nước Tàu. Phần này không nằm trong chủ đề của bài viết. Nhưng ông kết luận đây là hai tuyến phòng thủ bảo vệ nền an ninh cho Đông Dương chống lại sự dòm ngó của nước Tàu và Nhật. (E. Diguet, trang 172).
Chính sách Liên Hiệp(La politique d’Association). Hơn ai hết Diguet cho rằng:

“Il faut faire la conquête morale du peuple annamite. Il faut combler le fossé que nous avons creusé de nos propres mains entre les deux races. Il faut descendre du haut de notre orgeuil de conquérants et voir chez nos protégés des hommes libres et non des esclaves.” (E. Diguet, ibid., trang 173).

(Phải có một cuộc chinh phục tinh thần người dân Annam. Phải lấp cái hố do chính bàn tay chúng ta đào lên giữa hai chủng tộc. Phải hạ mình xuống không co cái hống hách của kẻ đi chinh phục và nhìn những người được chúng ta bảo hộ là những con người tự do, không phải những kẻ nô lệ).

Muốn làm được điều trên thì phải thay đổi cách thu thuế và chế độ hành chánh. Thay vì thu thuế gián thâu gây bực tức và phẫn nộ trên người dân thì thu thuế trực thâu. Để người Việt tự quản trị, và phán xử, chúng ta thực thi chủ quyền bằng cách kiểm soát chặt chẽ.

“Dans l’ordre fiscal remplacons la plupart des impots indirects, vexatoires et impopulaires, par des impôts directs produisant le même revenu pour le fisc. Dans l’ordre administratif, revenons à l’observation des traités; laissons les Annamites s’administrer et se juger librement eux-mêmes et n’exercons notre souveraineté qu’à l’aide d’un haut contrôle.” (E. Diguet, ibid., trang 176).

(Về chính sách thuế khóa, chúng ta cần thay thế phần lớn chính sách thuế khóa gián thâu thường gây phiền nhiễu và không được lòng dân bằng thứ thuế trực thâu mà cũng sẽ thu được kết quả tương tự về tiền bạc. Về chính sách hành chánh, cần xem xét lại các bản thỏa ước và hãy để cho người Annam tự quản trị và tự họ thẩm định chính họ và chúng ta chỉ can thiệp đến thẩm quyền của chúng ta ở cấp cao.)

Giáo sư Nguyễn Thế Anh cũng đề cập đến chính sách Liên Hiệp này. Ông nhắc đến các công trình cũng được những người như Bonard và và Bộ trưởng Hải quân Pháp Chasseloup-Laubat tán thành. Có nghĩa là xứ này phải được các công chức bản xứ điều hành, dưới sự kiểm soát của Thanh tra người Pháp. Vì thế từ 1862, có chế độ quan huyện người Việt được thay thế các quan chức Pháp. Vào năm 1863, La Grandière đã cho thiết lập chính thức chế độ Thanh tra bản xứ vụ. (Inspecteurs des affaires Indigènes). (Nguyễn Thế Anh, “Việt Nam thời Pháp đô hộ”, Tủ sách Sử Địa Đại Học, Lửa Thiêng xuất bản, 1970, trang 133)

Về sự phát triển canh nông

Người ta thường cho rằng, xứ Nam Kỳ là vựa lúa của miền Viễn Đông. Nhưng thật ra đó chỉ là một vùng đất rộng bỏ hoang với những cánh đồng sình lầy mà theo Diguet là nơi cư trú duy nhất của những thú dữ: “Les animaux féroces sont les seuls habitants”. (E. Diguet, ibid., trang 140)

Tính từ Mỹ Tho thì đấy chỉ là những cánh đồng ngập nước và không trồng trọt được suốt dọc các tỉnh Cần Thơ, Bạc Liêu, Tân An, Vĩnh Long, Rạch Giá. Đâu đâu cũng là những mảnh đất bỏ hoang với các cây mây. Dần dần, người ta bắt đầu đào các con kênh để làm khô cạn đất. Nhờ đó dân chúng bắt đầu tụ tập về làm ăn. Nhưng phải cần rất nhiều thời gian và công sức khẩn hoang các mảnh đất vốn không trồng trọt được để trở thành đất trồng trọt được. Phải 50 năm, dân số mới tăng lên gấp đôi và lượng lúa gạo cũng tăng gấp đôi. Người pháp không mấy chú trọng vào việc trồng lúa mà chú trọng trồng các cây khác như mía, cây thuốc lá và đậu lạc, cây hồ tiêu. Hồ tiêu rất có giá ở bên Pháp. (E. Diguet, ibid., trang 141)

Theo Jean- Pierre Alem trong L’Union Indochinoise thì trước khi người Pháp đến xứ Nam Kỳ, ở đấy chỉ có sự bất an và nghèo túng. Ông viết:

“Elles vivaient dans la terreur constante de la famine et des pirates. Le dur climat, le manque d’hygiène, la sous-alimentation provoquaient de terribes épidémies. La peste, le paludisme, la variole, le choléra, la lèpre, le béri-béri ravagaient le pays. La mortalité infantile était effrayante.” (Jean-Pierre Alem, L’Union Indochinoise, trích lại trong tập Annam et Indochinoise, chương L’oeuvre de la France.)

(Người dân đã sống trong nỗi sợ hãi thường trực giữa nạn đói kém và bọn cướp. Khí hậu khắc nghiệt, thiếu vệ sinh, thiếu dinh dưỡng đã tạo ra nhiều bệnh dịch. Bệnh dịch hạch, bệnh sốt rét, bệnh đậu mùa, bệnh dịch tả, bệnh cùi, bệnh phù thũng đã tàn phá xứ sở. Tỉ lệ tử vong nơi trẻ con thật đáng sợ.)

Miền đồng bằng sông Cửu Long nay với 3 triệu mẫu đất trồng trọt. Những kế hoạch xây dựng đê điền, đào kinh ngòi làm khô đất hoặc rửa phèn, rửa mặn trên những cánh đồng lầy là những công trình lớn lao còn hơn cả việc đào kinh Suez. Đây là một trong những kế hoạch quan trọng bậc nhất là mở các đường thủy lộ.

Như việc mở rộng thêm kinh Vĩnh Tế nối liền sông Cửu Long ra vịnh Xiêm La, Kinh Rạch Giá, kinh Chợ Gạo.

Từ năm 1898, các hãng nạo vét kinh rạch đã đào sâu các con kinh hoặc làm các con kinh mới. Khi có những con kinh thì dọc theo bờ kinh sẽ có các cánh đồng ruộng mọc lên ở các tỉnh như Cần Thơ, Rạch Giá, Mỹ Tho, Tân An, Bạc Liêu, v.v.

Tất cả công việc nạo vét và đào kinh này do công ty Société Francaise industrielle d’Extrême Orient thực hiện trong nhiều năm trời.

Việc nuôi gia cầm cũng phát triển mạnh và đem lại lợi nhuận nhiều. Nhưng nghề này bị đe dọa về các dịch gia súc như xuất huyết bò. Cần nhiều cán bộ thú y Việt Nam ra trường để chỉ dạy cách chăn nuôi và phương pháp khoa học để ngăn chặn các loại dịch gia cầm này. (E. Diguet, ibid., trang 126).

Về việc đào kinh, Sơn Nam mặc dù cho đó là chính sách của thực dân Pháp nhằm chuyên chở hàng hóa cho chế độ thức dân. Ông cũng dành hẳn một chương trong Đất Gia Định xưa để trình bày một cách rất chi tiết công việc đào kinh này. Ông viết:

“Mỗi tháng dân đinh làm 4 ngày sâu, tức mỗi năm 48 ngày. Cuối năm 1864, ở ba tỉnh miền Đông, con số dân đinh đã kiểm tra là 35.992, tính ra 1.700.000 ngày, trị giá mỗi ngày nửa quan, làm sâu đem lại lợi ích như thâu được 863. 808 quan tiền thuế. Thực dân tha hồ đắp lộ, lấp những con rạch nhỏ ở Saigon. Ở tỉnh đào và vét kinh để tuần tiễu dễ dàng, đồng thời chở lúa gạo, thực phẩm. […] Nhưng công trình chiến lược là kinh Chợ Gạo. (Canal Duperré) nối sông Cửa Tiểu qua Vàm Cỏ để đưa nhanh chóng lúa gạo từ vựa lúa lớn nhất vùng đồng bằng thời bấy giờ về Sài gòn- Chợ Lớn thay vì đi vòng qua Kinh Bảo Định. Kinh dài 12km, đào 900.000 mét khối đất, với 676.000 ngày làm xâu trong hai tháng, bờ kinh đắp cao để làm lộ xe. Đây là công trình lớn đầu tiên, khánh thành ngày 10-7- 1877, do chính Thống đốc Nam Kỳ tham dự, để trực tiếp thách thức những người từng hưởng úng cuộc khởi nghĩa Thủ Khoa Huân hồi hai năm trước. […] Năm 1878, đào kinh Chẹt Sậy và Phú Túc nối kinh Chợ Gạo về phía Bến Tre. Phía Hậu Giang, đào kinh nối bờ sông Hậu về lưu vực sông Mỹ Thanh (Gọi là kinh Saintard), khoảng 1878-1879 tạm ngừng rồi tiếp tục năm 1882.”

(Sơn Nam, Đất Gia Định xưa, nxb Trẻ, TP HCM, 22-4-1997, trang 111-112)

Nhưng việc đào kinh sau này thay vì dùng sức người thì dùng sức máy.

“Nhà nước Pháp đã thuê công ty khai thác kỹ nghệ ở Viễn Đông. Công ty: Société francaise industrielle d’Extrême- Orient. Công ty này giá rẻ hơn 20 xu một mét khối vuông, đào thật nhiều kinh phía Hậu Giang. […] Nhờ công ty này mà các kinh sau đây đã được đào từ năm 1895-1898:

– Đào kinh tắt Thanh Đa. Nạo vét kinh Núi Sập, (Thoại Hà), kinh này được đào dưới thời Gia Long, nối Long Xuyên qua Rạch Giá. Đào kinh Chợ Lách, đào kinh cầu An Hạ, đào kinh ông Hiền, nạo vét và điều chỉnh một số kinh khác.”

(Sơn Nam, ibid., trang 116)

“Ở thành phố Sài gòn, có 8 nhà máy xay lúa sau này phần lớn rơi vào tay người Tàu. (6 nhà máy). Mỗi năm xay cả triệu tấn thóc. Còn rất nhiều những kỹ nghệ nhỏ như làm đồ gốm, làm gạch như nhà máy ở Vĩnh Long, Biên Hòa và rất nhiều hãng cưa ở rải rác khắp nơi. Làm chiếu ở Châu Đốc, máy tàu ở Rạch Giá, nước mắm ở Phú Quốc và Bà Rịa. Kỹ nghệ làm nước mắm sau này như thứ độc quyền của người Việt Nam từ Hà Tiên đến bà Rịa. Kỹ nghệ tơ tằm ở Cù Lao Giêng thuộc tỉnh long Xuyên và Châu Đốc.”

(Sơn Nam, ibid., trang 137)

Kết luận

Tôi thiết nghĩ rằng trong cái chiều hướng lịch sử thời vua nhà Nguyễn, sự có mặt của người Pháp là chuyện chẳng đặng đừng. Không có người Pháp thì cũng có người Anh, người Hòa Lan, Người Tây Ban Nha lúc nào cũng sẵn sàng can thiệp. Đó là xu hướng mang tính toàn cầu không mấy nước chậm tiến thoát khỏi. Toàn quyền Đông Dương trong một thư gửi cho Trương Vĩnh Ký vào 29-6-1886 viết huỵch tẹt như sau:

“Yes, no matter what happens, a European nation will enter Annam in order to take on a controlling influence there..It will not last, I am sure of that, but it is necessary to go through it: Annam cannot escape this fate.”

(Paul Bert, résident général of France in Annam and Tonkin, letter to the Catholic scholar Truong Vinh Ky (Petrus Ky), june 29,1886. Trích lại trong Indochina, Pierre Brocheux, trang 15)

Nhưng đấy là câu chuyện xưa có tính lịch sử mà ở nhiều góc cạnh, người ta vẫn có thể bàn cãi hơn thiệt, đúng sai về mặt chính trị, mặt chủ quyền dân tộc.

Nhưng về các mặt khác như y tế, y khoa phòng ngừa, giáo dục, phát triển hạ tầng cơ sở, chuyện kinh doanh thương mại không lẽ không thấy được cái mặt tích cực của người Pháp trên mảnh đất này? Vì thế, những nhận xét của đại tá E. Diguet trên nhiều mặt là tích cực và không phải là vô ích. Không có người Pháp thì Nam Việt Nam không có được như ngày nay.

Một mặt, việc mở mang bờ cõi về phương Nam, sức mạnh chính là do sức mạnh cần cù của con trâu, cái cầy trên những vùng đất của lau sậy, sình lầy với cọp trên rừng, cá sấu dưới nước. Cuộc tranh đấu để sinh tồn lo đối phó với thiên nhiên, lo khẩn hoang thì tốn kém nhiều công sức nhiều hơn là lo tranh chấp với vương quốc láng giềng. Lưỡi gươm đeo trên vai trong việc mở mang bờ cõi chỉ là một cách nói chứ thật sự mấy khi phải đụng đến binh đao.

Cam Bốt là hình ảnh một vương triều đã chậm lụt của một nền văn minh đang suy tàn. Nhà vua, chủ thể tuyệt đối trên con người trong một triều đình xa hoa tráng lệ trên con dân khốn khổ, lại có những tranh chấp nồi da xáo thịt trong khi biên giới luôn luôn có những đe dọa của những kẻ đi chinh phục lúc nào cũng sẵn sàng.

Nếu không mất vào tay vua quan nhà Nguyễn thì liệu có đương cự nổi với một kẻ thù từ xa tới là Xiêm La? Và liệu không có người Pháp tại Đông Dương thì cuộc Nam tiến đâu có dừng tại Mũi Cà Mau

Cùng một cách suy nghĩ ấy thì nếu không có sự hiện diện của người Pháp, liệu ngai vàng nhà Nguyễn sẽ tồn tại được bao lâu với một kẻ thù phương Bắc?

Người Pháp khi sang khai thác thuộc địa phần lớn là nhằm mối lợi kinh tế mà không cần nhắc lại. Tuy nhiên, trong đó cũng có chính sách hợp tác và muốn biến Việt Nam thành một thuộc địa phát triển và giáu mạnh.

Riêng Sài Gòn, người Pháp đã mong muốn ngay từ những ngày đầu thuộc địa khoảng thời gian 1850 đến 1880 biến Sài gòn thành một Singapore của Pháp qua Phòng Thương Mại ở Marseille gửi thư cho bộ trưởng Bộ Hải quân và thuộc địa vào 9 tháng 5, năm 1865. Mục tiêu ấy được nêu rõ:

“The goal was “to make Saigon a French Singapore” as the Marseille Chamber of Commerce put it in 1865.”

(Pierre Brocheux, Daniel Hémry, IndoChina, An ambiguous Colonization, 1858-1954, trang 14.)

Đường Hai Bà Trưng, thời Phaspp thuộc là rue Paul Blanchy (vua Tiêu). Cồng vàonhà máy làm thuốc phiện trong khoảng 1881-1954.
Đường Hai Bà Trưng, thời Pháp thuộc là rue Paul Blanchy (vua Tiêu). Cổng vào nhà máy làm thuốc phiện trong khoảng 1881-1954.


Mục tiêu ấy để ra để cạnh tranh và cân bằng với sức mạnh của Anh Quốc trên bình diện Quốc tế và cũng nhằm để củng cố nền đệ tam cộng hòa Pháp Quốc trên đà suy yếu.

Ấy là chưa kể đến áp lực tôn giáo trong việc truyền bá đức tin, chuyện bành trướng thuộc địa ngay cả việc đề cao vai trò vĩ đại của nước Pháp.

Cho nên, chúng ta sẽ không lấy làm lạ gì, Sài gòn lại phát triển đến như thế. Cảng Sài gòn được coi là một trong những bến cảng hoạt động nhộn nhịp nhất. Năm 1937, hoạt động của cảng Sài Gòn là 2.140.000 tấn hàng, đứng hàng thứ sáu trong các cảng biển của Pháp và thuộc địa.

Và nếu mức độ đầu tư vẫn gia tăng thì xứ Đông Dương chẳng mấy chốc trở thành một trong những nước kỹ nghệ hàng đầu của Á Châu.

Trong vấn đề đầu tư của Pháp, dứng về mặt lợi ích kinh tế thì không phải chỉ một chiều nghĩa là chỉ mình người Pháp khai thác và hưởng lợi, mà cả phía đối tác như Việt Nam cũng chia xẻ phần lợi nhuận ấy. Nó cũng không khác gì tình trạng hiện nay, việc đầu từ giữa các nước phát triển và chậm phát triển vậy. Đường dài, tình trạng gia công, chế xuất sẽ có những chuyển đổi đem nhiều thuận lợi cho nước chậm phát triển.

Trong việc đầu tư của pháp vào Việt Nam: có đầu từ công và đầu tư tư nhân.

Trong đầu tư công, nguồn vốn ngân sách tập trung phần lớn vốn vào xây dựng hạ tầng cơ sở như đào sông ngòi, xây dựng cầu đường, đường xe lửa.

“Finally, and most important, public investment served principally to finance the construction of infrastructure and the tools necessary for an export economy. Public works represented the essential arena of this investment and absorbed 18% to 20% of the entire budget from 1900 to 1939, more than 6 billion 1937 fr. (P. Brocheux, ibid., trang 157.)

Điển Hình là Chương trình của Doumer đã xây dựng 2700 km đường sắt. Riêng đoạn đường Hải Phòng-Lào Cai dài 384 cây số, mỗi cây số tốn 200.000 fr. (200.000 fr thay vì kế hoạch đề ra có 130.000 fr một cây số, một đồng Việt Nam hồi đó ăn 10 fr). Thay vì tổn phí 50 triệu fr cuối cùng tính ra tốn 75 triệu fr. ( P. Brocheux, Indochina, ibid., trang 129).

Trong đầu tư tư, có rất nhiều đại công ty ở Pháp như tại Bordeaux và Marseille, nhiều đại công ty sang Việt Nam bỏ vốn làm ăn. Chính sách đầu tư tư nhân của Pháp tập trung vào sản xuất nguyên liệu và phó sản (production of raw materials, semi-processed materials) có thể dễ dàng tiêu thụ trên thị trường ngoại quốc.

Theo Pierre Brocheux:

“This flow of capital reached ít first plateau between 1890 and 1914. An oficial study valued private investments in 1903-5 at 126,8 million gold francs: 57% in industry, 10% in agriculture, and 33% in commerce, more than 75% of whcich was confirmed to Cochinchina and Tonkin.” (P. Brodeux, Indochina, ibid., trang 161).

Rất tiếc, cuốn sách của gs Nguyễn Thế Anh, “Việt Nam thời Pháp đô hộ”, lại quá chú trọng đến mặt chính tri: đến chính sách cai trị của người Pháp, đến các phong trào nổi dậy chống đối người Pháp, đến các mặt hành chánh, thuế khóa và xã hội dưới thời Pháp đô hộ. Nhưng lại bỏ quên các mặt tích cực của người Pháp về mặt đầu tư phát triển, về sản xuất cũng như lợi tức hay nếp sống của người dân.

Khám Lớn Sài Gòn. Nguồn: OntheNet
Khám Lớn Sài Gòn. Nguồn: OntheNet

Qua bài viết này, hy vọng độc giả có thêm một cách nhìn khác về chế độ thuộc địa Pháp ở Việt Nam. Người viết nhận thấy nhờ mặt tích cực của thực chất chế độ thực dân đời sống con người Việt Nam được nâng cao về nhiều mặt vật chất