I. Nhận thức lại về vị trí xứ An Nam thời nhà Đường

Trên địa bàn Lĩnh Nam, đời Tùy và đời Đường có nhiều khác biệt về hành chính so với đời Hán. Lúc này đã xuất hiện đơn vị châu hoặc quận nhỏ hơn trước, quản lý trực tiếp các đơn vị huyện. Châu và quận thời Tùy Đường trên thực tế là một, chỉ là sự thay đổi cách gọi ở các thời điểm.

Sau khi bình định được Giao Châu, vốn nằm dưới sự kiểm soát của nhóm dân bản địa người Lý từ năm 541 đến 602, năm 605 nhà Tùy đánh chiếm nước Lâm Ấp và đặt thành ba quận Tỉ Cảnh, Hải Ầm, Lâm Ấp. Trên cơ sở này nhà Đường thiết lập hai phủ tổng quản là Giao Châu tổng quản phủ và Nam Đức châu tổng quản phủ. Phủ vốn là một đơn vị cùng hàng với châu hay quận, nhưng được coi là trung tâm khu vực và kiêm quản các châu lân cận, đây chính là cơ chế tổng quản phủ hay đô đốc phủ.

Theo Cựu Đường thư q41, Địa lý chí:  Năm Vũ Đức thứ 5 (622) đổi Giao Chỉ làm An Nam tổng quản phủ, quản 10 châu….[1] . Như vậy đã có việc sử dụng các khái niệm Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam cho cùng một khu vực tổng quản phủ này.

Năm Vũ Đức thứ 7 (624) nhà Đường đổi Giao Châu tổng quản phủ thành Giao Châu đô đốc phủ. Giao Châu đô đốc phủ quản lãnh 10 châu: Giao, Phong, Ái, Tiên, Diên, Tống, Từ, Hiểm, Đạo, Long.

Năm đầu niện hiệu Trinh Quán (627) đổi Nam Đức châu tổng quản phủ làm Hoan Châu đô đốc phủ. Hoan Châu đô đốc phủ quản lãnh 8 châu: Hoan, Diễn, Nguyên, Minh, Trí, Hải, Lâm, Cảnh [2]

Năm thứ hai niên hiệu Chí Đức (757) đổi An Nam đô hộ phủ, tức là Giao Châu, làm Trấn Nam đô hộ phủ, lấy Trương Bá Nghi làm đô hộ. [3]

Năm Đại Lịch thứ 3 (768) lại đổi Trấn Nam đô hộ phủ thành An Nam đô hộ phủ

Lúc này An Nam đô hộ phủ thống trị 12 châu là: Giao Châu, Lục Châu, Phong Châu, Ái Châu, Hoan Châu, Trường Châu, Phúc Lộc Châu, Thang Châu, Chi Châu, Vũ Nga châu, Diễn Châu, Vũ An châu.

Từ thời điểm này và về sau không còn thấy Hoan Châu đô đốc phủ nữa. Trên danh sách 12 châu xuất hiện cả một số châu thuộc hai đô đốc phủ. Vậy thì thực chất An Nam lúc này là sự hợp nhất hai đô đốc phủ, chứ không chỉ là Giao Châu hay An Nam ban đầu. An Nam tiết độ sứ chỉ quản 12 châu, ít hơn 6 châu so với tổng số trước đó, mà tên châu cũng không trùng hết với giai đoạn trước, hẳn đã có sự đổi tên, tách nhập hoặc một số châu ở xa nhà Đường đã phải bỏ.

Phủ An Nam trước vốn là Tống Bình, năm Đại Lịch thứ 2 (767) Trương Bá Nghi đắp La Thành, dời phủ đến chỗ mới đó.

.

Nhận thức phổ biến ngày nay cho rằng khu vực An Nam thời nhà Đường chủ yếu ở trên đất Việt Nam ngày nay, còn trị sở La Thành của Cao Biền là vùng nay thuộc nội thành Hà Nội.

Tuy nhiên có nhiều chứng cứ cho thấy nhận thức này cần được xem xét lại.

1. Đặng Xuân Bảng dẫn các nguồn sử liệu từ thế kỷ 10 là Đường thư và Thái Bình hoàn vũ ký, đã chép như sau:

Cho nên 11 châu là Việt (tức là huyện Thiên Hà, nay là Khánh Viễn), Ngung (nay là huyện Lục Xuyên, châu Uất Lâm), Hoàn (nay là huyện Tư Ân phủ Khánh Viễn đều thuộc Quảng Tây), Nhai (nay là Nhai châu), Chấn (nay là Ninh Viễn thuộc Nhai Châu), Quỳnh (nay là phủ Quỳnh Châu), Đam (nay là Đam châu), Vạn An (nay là Vạn châu), Lôi (nay là phủ Lôi Châu), Liêm (nay là phủ Liêm châu), Cổ châu (nay là phủ Lê Bình tỉnh Vân Nam) thì sách Thái Bình hoàn vũ ký chép là đều thuộc An Nam đô hộ phủTừ đời Kiền Nguyên về sau mới thuộc về hai hạt Ung, Dong (nay thuộc Quảng Tây)”. Và tiếp: “Các châu Vũ Nga (nay là huyện Vũ Nga phủ Tư Ân), Chi (nay là huyện Hân Thành tỉnh Khanh Viễn), Lục (nay là huyện Linh Sơn châu Khâm), Tây Nguyên (nay là hai huyện Khai Thái, Vĩnh Tòng thuộc phủ Lê Bình tỉnh Quý Châu), La Phục (nay là huyện La Thứ phủ Khúc Tĩnh tỉnh Vân Nam), ba châu Lang Mang, Đức Hóa, Long Vũ (nay là miền nam phủ Lâm An tỉnh Vân Nam), Quy Hóa (nay là miền nam phủ Thái Bình tỉnh Quảng Tây thì sách Đường thư cũng chép là thuộc An Nam đô hộ phủ quản hạt” [4]

Theo đó thì cương vực An Nam không chỉ trên đất Việt Nam ngày nay mà còn bao phủ một phần lớn vùng Quảng Tây Trung Quốc.

2. Đặng Xuân Bảng dẫn sách Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc Sửthế kỷ 10cho biết: “Ái Châu tức là Cửu Chân, nam giáp quận Nhật Nam, tây giáp quận Tường Kha, bắc giáp Ba Thục, đông bắc giáp Uất Lâm”. [5]

Vậy thì cũng có một Ái Châu lên đến phía tây bắc Quảng Tây, rõ ràng khác với Ái Châu là đất Việt Nam ngày nay

Phía nam Ái Châu là Hoan Châu, đây cũng từng là đất quận Nhật Nam. Theo sách Tân Ngũ đại sử (q74 – Tứ di phụ lục – Chiêm Thành), thế kỷ 11, thì nước Chiêm Thành phía tây tới Vân Nam, phía bắc tới Hoan Châu. Sách Tống sử (q489 – ngoại quốc 5), thế kỷ 14, cũng cho biết Chiêm Thành phía tây tới Vân Nam, phía bắc tới địa giới Hoan Châu. Theo các mô tả này thì Hoan Châu này phải là một khu vực thuộc về Quảng Tây hay Vân Nam chứ không phải là đất thuộc về Việt Nam ngày nay.

3. Sách Tân Ngũ đại sử (q65 – Nam Hán thế gia)  cho biết năm Bạch Long thứ 4 (928) quân Nam Hán và quân Sở đánh nhau ở Phong Châu.  Tống sử (q495 – Man di 3 – Quảng Nguyên Châu) cho biếtnăm 1052 Nùng Trí Cao đánh nhà Tống “liên tiếp phá chín châu: Hoành, Quý, Cung, Tầm, Đằng, Ngô, Phong, Khang, Đoan. Giết Tào Cận ở Phong Châu…”. Vậy thì ở Lưỡng Quảng cũng có Phong Châu, muộn nhất cũng từ thời nhà Đường, tức là không thể định vị phủ An Nam theo Phong Châu khi chưa khẳng định được đó là Phong Châu nào. Các bộ sử của Việt Nam và Trung Quốc đều chép Cao Biền từ phía biển vào đánh Phong Châu trước rồi mới vây đô hộ phủ, cho thấy Phong Châu này khó có thể là vùng Phú Thọ ngày nay được.

4. Lư Vĩ An dẫn chi tiết trong Tân Đường thư  –  Địa lý chí, quyển 43 hạ, cho biết có đoạn chép lại phần khảo cứu của nhà địa lý Giả Đam, thời Đường, mô tả 7 con đường thông các xứ với lục địa Trung Quốc, đó là: 1) từ Doanh Châu vào An Đông; 2) từ Đăng Châu theo đường biển vào Bột Hải; 3) từ vùng biển tại Hạ Châu đến Đại Đồng, Vân Trung; 4) từ thành Trung Thụ Hàng vào Hồi Hộc; 5) từ An Tây vào Tây Vực; 6) từ An Nam đến Thiên Trúc và 7) từ Quảng Châu đến các xứ “di” trên biển, được gọi là “Quảng Châu thông hải di đạo”. [6]

Có thể giải thích rằng con đường thứ nhất là đường biển nối Nhật Bản qua vùng Mãn Châu, con đường thứ 2 cũng là đường biển nối Triều Tiên qua vịnh Bột Hải, con đường thứ 3 từ ngoài đến cửa biển ở nam Phúc Kiến rồi vào Trung Nguyên, con đường thứ 4 là đường bộ đi qua Tân Cương nối với Tây Á, con đường thứ 5 là đường bộ đi qua phía nam Tân Cương sang phía lưu vực sông Ấn, con đường thứ 7 là đường từ Quảng Châu đi xuống phía nam và sang phía tây, nối Trung Quốc các nước ven biển.

Bởi vì con đường từ Quảng Châu đã đảm nhiệm kết nối dọc biển nên việc phải đi xuống Việt Nam rồi lại mở con đường biển nữa là khó có tính thực tế. Mặt khác, nhà địa lý chắc chắn không thể bỏ quên con đường bộ từ Trung Quốc xuống phía nam rồi đi qua Miến Điện sang Thiên Trúc, đã được Tư Mã Thiên nhắc đến từ trước công nguyên, tức đây phải là con đường thứ 6. Thế nhưng con đường này không đi qua đồng bằng sông Hồng ở Việt Nam. Vậy thì khu vực An Nam nằm trên con đường thứ 6 phải ở phía nam Trung Quốc chứ không thể ở địa bàn Việt Nam ngày nay.

5. Vũ Châu

Đại Việt sử ký toàn thư chép lại từ Tân Đường thư cho biết năm Canh Thìn (860) dân thổ man dẫn quân Nam Chiếu cộng hơn 3 vạn người nhân lúc quân Đường sơ hở đã tấn công chiếm được phủ trị. Đô hộ Lý Hộ cùng giám quân chạy về Vũ Châu. Sau đó Lý Hộ thu nhặt tàn binh đánh lấy lại được phủ thành.

Nguyễn Văn Siêu dẫn sách Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tô Vũ, như sau: “Thang Châu thành […] Lại có Vũ Châu ở tây bắc phủ. Tân Đường thư chép: những huyện mà Ung Châu quản Lĩnh có Hiển Châu, Vũ Châu, Chầm Châu, sau bỏ. Có kẻ nói Vũ Châu niên hiệu Đại Trung lại đặt. Đường sử chép: niên hiệu Hàm Thông, rợ Nam Chiếu hãm Giao Chỉ. An Nam đô hộ Lý Hu chạy đến Vũ Châu”  [7]

Nếu phủ đô hộ An Nam ở Hà Nội thì việc gì Đô hộ Lý Hu lại phải bỏ chạy đến tận Vũ Châu khu vực thuộc Ung Châu, mà nếu có thì đây phải là hướng đông bắc chứ không thể là tây bắc.

6. Trấn Hải Môn và Dung Châu

Các sách An Nam chí lượcViệt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư chép, năm 864 nhà Đường sai Dung Quản kinh lược sứ Trương Nhân kiêm coi giữ Giao Châu để lấy lại phủ thành An Nam nhưng Nhân không chịu tiến quân, vì vậy cho Cao Biền thay thế. Cao Biền từ trấn Hải Môn tiến quân vào phá địch ở huyện Nam Định, đánh Phong Châu, rồi vây thành Giao Châu.

Vị trí của Trấn Hải môn được Đại Thanh nhất thống chí ghi nhận là ở huyện Bác Bạch [8], nay thuộc địa khu Ngọc Lâm của Quảng Tây. Dung Quản tức là Dung Châu, trung tâm  châu này nay là huyện Dung, ở phía bắc địa khu Ngọc Lâm. Cả hai vị trí này đều ở cách Hà Nội trên 500km là quá xa. Tại sao sử sách không nhắc tới Ung Châu, phủ thành của Lĩnh Nam tây đạo, trong khi đây lẽ ra phải là việc của Ung Châu? Bởi vì rất có thể phủ thành bị mất chính là thành Ung Châu.

7. Chức Tiết độ sứ

Tư trị thông giám, quyển 253, cho biết: ““Đường Hy Tông năm Quảng Minh thứ nhất [880]Tháng 3, quân loạn tại An Nam, Tiết độ sứ Tăng Cổn bỏ thành trốn; các đạo binh thuộc Ung quản tự động rút về.” [9]

Đoạn này có thể có hai cách hiểu, một là binh lính của Ung quản đến An Nam coi giữ rồi tự động rút về Ung châu vì viên Tiết độ sứ bỏ trốn, hai là An Nam phủ chính là Ung châu, binh lính Ung quản vốn ở đó, rồi bỏ về?

Tăng Cổn là Tiết độ sứ ở An Nam, chức vụ có thể coi là toàn quyền ở các đạo. Đạo là cấp địa phương cao nhất thời nhà Đường, được cai quản bởi một tiết độ sứ. Sẽ là vô lý nếu An Nam chỉ là một khu vực trực thuộc của Lĩnh Nam tây đạo mà cũng có tiết độ sứ.

Người thay thế Tăng Cổn là Chu Toàn Dục. Theo Trần Quốc Vượng, trong phần chú giải sách Việt sử lược thì Chu Toàn Dục chỉ được Cựu Ngũ đại sử ghi là làm Lĩnh Nam tây đạo tiết độ sứ. (Cựu Ngũ đại sửq12, truyện Chu Toàn Dục)

8. Kênh Thiên Uy.

Chúng ta hãy xem xét  bài thơ Quá Thiên Uy kính, do Cao Biền làm lúc dẹp xong quân Nam Chiếu và khai thông kênh Thiên Uy giúp con đường về phương bắc trở nên dễ dàng.

Quá Thiên Uy kính

Sài lang khanh tận khước triều thiên,
Chiến mã hưu tê chướng lĩnh yên.
Quy lộ hiểm hy kim thản đãng,
Nhất điều thiên lý trực như huyền. 

Dịch nghĩa

Qua kênh Thiên Uy

Giặc Nam Chiếu sài lang đã bị chôn vùi hết, hôm nay trở về triều,
Ngựa chiến không còn kêu vì phải đi qua chướng khí nữa.
Con đường hiểm trở lúc trước nay đã bằng phẳng,
Cả ngàn dặm đường thẳng tắp như sợi dây kéo căng.

(theo Thivien.net)

Từ Hà Nội, ngày xưa có hai con đường chủ yếu để đi lên phương bắc. Một là ra cửa sông rồi theo biển đi lên phía bắc, hai là lên phía Lạng Sơn đi sang Ung Châu/Nam Ninh rồi theo đường thủy đi tiếp. Con đường thứ nhất rõ ràng không đi qua nơi hiểm trở và nhiều chướng khí, và chẳng có chỗ kênh nào phải khai phá cả. Con đường thứ hai kết hợp thủy bộ khá phức tạp, không thể cho là “Cả ngàn dặm đường thẳng tắp như sợi dây kéo căng“.Vậy thì phủ thành phù hợp với miêu tả phải ở Ung Châu/Nam Ninh chứ không phải ở Hà Nội.

Lê Quý Đôn dẫn ghi chép trong sách Bắc mộng tỏa ngôn của Tôn Quang Hiến (900-968), như sau: “Khoảng đất từ phía Bắc Giao Chỉ cách Nam Hải có đường thủy, thuyền đi qua đấy hay bị lật úp. Cao Biền đến đấy coi, biết là có đá nằm ngang ngầm dưới nước, nhân tâu vua xin đào đá ấy đi để lợi cho việc giao thông ra Nam Hải”. Cũng theo Lê Quý Đôn, bài biểu đại lược nói: “Người cầm lái thuyền, gặp đá chắn ngang sông, vừa mới lên thuyền nhổ sào, liền về chín suối”. Vua hạ chiếu, chuẩn y lời tâu. Cao Biền gọi thợ bạt phẳng đá ấy đi, đến nay dân còn nhớ ơn. Có người bảo Biền dùng thuật giả làm sấm sét phá tan đá ấy”. [10]

Tôn Quang Hiến cũng ghi nhận Cao Biền phá đá để khai thông con đường sông có sẵn. Các bộ sử của Đại Việt, xuất hiện rất lâu về sau, mới chép đó là con đường biển.

Tóm lại, có thể kết luận rằng An Nam chính Lĩnh Nam tây đạo, được lập vào năm 862, sau đổi làm Tĩnh Hải quân, cương vực thuộc cả Trung Quốc và Việt Nam ngày nay. Thủ phủ là La Thành, cũng tức là thành Ung Châu. Khu vực trên đất Việt Nam ở phía cực nam, do đó đầu thời Đường thuộc vào Hoan Châu đô đốc phủ, sau đó mới nhập với Giao Châu đô đốc phủ ở phía bắc để thành An Nam. Do An Nam được thừa hưởng từ các khái niệm vẫn còn được dùng là Giao Châu, Giao Chỉ, vì vậy phần đất ở Việt Nam cũng được gắn theo các tên đó. Sau này chỉ phần phía nam của An Nam dành độc lập và được gán cho toàn bộ, trong khi phần phía bắc vẫn thuộc về Trung Quốc và mang những cái tên khác.

II. Làm rõ vị trí một số huyện thành của An Nam

Kết luận ở phần I phù hợp với kết quả trong bài viết trước đây trong đó, tôi đã làm rõ vị trí các quận huyện của Giao Châu thời Hán qua việc phân tích các dữ kiện địa lý và lịch sử trong bộ sách Thuỷ kinh chú của Lịch Đạo Nguyên. Theo đó hầu như toàn bộ Giao Châu, hay trước đó là Giao Chỉ bộ, đều nằm trên đất Lưỡng Quảng của Trung Quốc chứ không phải ở Việt Nam.

Đây là bản đồ mô tả vị trí các quận huyện của Giao Châu:

Hình 1: Các quận huyện Giao Châu thời Hán. Tác giả ghi chú vị trí các quân huyện, dựa theo bản đồ Bách khoa mở Wikipedia, mục sông Tây Giang, có vẽ bổ sung thêm sông Ming Jiang nằm giữa Tỉ Ảnh và Chu Ngô.

Tôi đã chứng minh thành Long Biên ở vị trí ngã ba sông Qian/Tầm Giang gặp sông Yu/Úc Giang/Ung Giang thành sông Xun/Tây Giang. Thành Mi Linh ở khoảng vị trí nay là thành phố Nam Ninh. Như vậy thành Mi Linh chính là thành Ung Châu về sau.

Sau đây chúng ta hãy xác định một số địa danh khác.

  1. Xác định vị trí thành Tống Bình, huyện Nam Định và sông Tô Lịch.

Chúng ta hãy xem xét ba đoạn ghi chép sau đây:

a. Đặng Xuân Bảng chép: Thái Bình hoàn vũ ký cho biết: Huyện Nam Định ở tây nam phủ đô hộ, có sông Tô Lịch, núi Đông Cứu, núi Phù Thạch [11]

b. Độc sử phương dư kỷ yếu (Nguyễn Văn Siêu chép lại) cho biết: “Nam Định thành, ở phía đông bắc phủ, vốn là đất huyện Tống Bình, năm thứ 4 niên hiệu Vũ Đức tách ra đặt huyện Nam Định, thuộc về Tống Châu, năm sau đổi thuộc về Giao Châu. Năm thứ 5 niên hiệu Đại Lịch bỏ, năm thứ 8 niên hiệu Chinh Quán lại đặt, năm thứ 6 niên hiệu Hàm Thông, Cao Biền làm An Nam đô hộ, từ cửa bể tiến quân đến Nam Định đánh úp quân mọi Phong Châu cả vỡ tức là ở đây”. [12]

c. Độc sử phương dư kỷ yếu (Nguyễn Văn Siêu chép lại)cho biết về Tống Bình như sau: Tống Bình thành,  phía nam phủ, đất huyện Long Biên đời Hán, đầu niên hiệu Hiếu Kiến nhà Tống tách đặt huyện Tống Bình sau đặt quận trị ở đấy…khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779) là Giao Châu trị, sau dời đến nơi ngày nay (tức là La Thàn). [13]

Theo điều a thì Nam Định thành ở tây nam phủ, mà theo điều b thì lại ở đông bắc phủ.

Có lẽ ai nghiên cứu cũng đều phải thừa nhận là cổ sử Trung Quốc rất rối rắm và nhiều chi tiết mâu thuẫn. Có thể nguyên nhân gây ra mâu thuẫn vừa nêu trên là do có hai nơi được xác định là phủ trong hai giai đoạn khác nhau, trước là Tống Bình, sau là La Thành vậy nên thành Nam Định có thể ở tây nam phủ này nhưng lại ở đông bắc phủ kia.

Theo điều c thì Tống Bình ở phía nam phủ. Trường hợp này không coi Tống Bình là phủ, vậy thì phủ phải là La Thành. Tức là coi Tống Bình ở phía nam La Thành.

Vậy nhưng điều b và c lại cho biết Nam Định ở đông bắc phủ, mà Nam Định vốn cùng đất với Tống Bình, thì có vẻ mâu thuẫn, mặc dù cùng trong sách Độc sử phương dư kỷ yếu. Bộ sáchđược soạn vào thế kỷ 17, có thể tác giả Cố Tô Vũ đã tham khảo và chắp nhặt nhiều nguồn tài liệu khác nhau nên xảy ra tình trạng đó.

Nam Định và Tống Bình vốn từ đất Long Biên. Theo kết quả phân tích Thủy kinh chú tôi trình bày ở trên thì Long Biên ở khá xa về phía đông bắc phủ [La Thành/ Mi Linh], do đó Tống Bình và Nam Định có thể ở về phía bắc chứ không thể ở phía nam La Thành.

Ngoài việc đã chứng minh Long Biên, và do đó là Tống Bình, ở phía bắc Mi Linh/LaThành, xét việc dời thành vào khoảng thời điểm hợp nhất Giao Châu đô đốc phủ với Hoan Châu đô đốc phủ ở phía nam, thì La Thành ở phía nam của Tống Bình là điều hợp lý hơn.

Theo Đào Duy Anh,  Nguyên Hòa quận huyện chí (q38của Lý Cát Phủthời nhà Đường, cho biết: “năm 767 Trương Bá Nghi bỏ thành cũ mà xây lại thành ở chỗ mới phía Bắc, cách sông Tô Lịch 200 thước” [14]

Hẳn ý của Lý Cát Phủ là: Năm 767 Trương Bá Nghi bỏ phủ thành cũ mà xây lại thành [La Thành] ở chỗ mới cách phía bắc sông Tô Lịch 200 thước. Bằng lý do nào đó, ý này đã bị thay đổi khiến ngộ nhận là thành dời về ở chỗ mới phía bắc, cách sông Tô Lịch 200 thước.

Khi gỡ được nút thắt này thì chúng ta có thể nhận thức thông suốt: La Thành/thành Ung Châu cách phía bắc sông Tô Lịch/Ung Giang/Yong 200 thước. Sông này nhìn chung chảy theo hướng đông bắc, nên từ La Thành xuôi sông sẽ đến Nam Định rồi đến Tống Bình.

Cao Biền từ phía Hải Môn ở Bác Bạch tiến vào đánh Nam Định trước, tức là Nam Định hẳn ở gần nhất.

Trên bản đồ, vị trí Bobai/博白chính là trung tâm Bác Bạch, huyện nay vẫn còn. Khúc sông Yong/Ung Giang mà gần Bobai nhất, là khúc sông gần đến Guigang/Quý Cảng. Phần phía bắc sông so với Nam Ninh/La Thành thì đúng là ở về phía đông bắc, vậy đây là vị trí huyện Nam Định.

Thành Tống Bình là  trị sở Giao Châu một thời gian dài, hẳn phải nằm bên con đường sông huyết mạch Ung Giang và có đường bộ thuận tiện. Lại bởi Nam Định ở phía tây nam nên Tống Bình ở phía đông bắc. Xem trên bản đồ ở đoạn sông thì thấy rõ một vị trí phù hợp nhất, đó là thủ phủ Quý Cảng/Guigang hiện nay.

Hình 2: La Thành ở vị trí nay là Naning [Nam Ninh], phần phía bắc sông Ung Giang. Tống Bình ở vị trí nay là Guigang [Quý Cảng]. Thành huyện Nam Định ở phía nam Tống Bình và cùng phía bắc bờ sông Ung Giang. Long Biên ở vị trí nay là Guiping [Quế Bình]

2. Xác định vị trí Phong Châu, Gia Ninh

Thái Bình hoàn vũ ký. Đặng Xuân Bảng dẫn lại, cho biết: Phong Châu lỵ sở ở huyện Gia Ninh, đi về phía đông nam đến phủ đô hộ đường bộ là 130 dặm [15]

Thái Bình hoàn vũ ký, Đặng Xuân Bảng dẫn lạichép: “Phong Châu đi về tây bắc theo sông Tây Đạo đến Cổ Dũng lại đi bộ 80 dặm đến huyện Gia Ninh có núi Tản Viên ở Phong Sơn” [16]

Vì câu trên nói Phong Châu lỵ sở huyện Gia Ninh, nên câu dưới thực chất phải là: Phong Châu: [từ phủ đô hộ] đi về tây bắc theo sông Tây Đạo đến Cổ Dũng lại đi bộ 80 dặm đến huyện Gia Ninh [tức là Phong Châu] có núi Tản Viên ở Phong Sơn.

Trường hợp này thì phủ là La Thành/Nam Ninh chứ không phải là Tống Bình, bởi vì chỉ có con sông You/Hữu Giang chảy từ tây bắc đổ về Nam Ninh là phù hợp với tuyến đường sông Tây Đạo.

Theo mô tả trên thì có hai con đường nối giữa phủ và thành Phong Châu/Gia Ninh. Một là từ Phong Châu đi về phía đông nam đến phủ, khoảng cách 130 dặm, cũng có nghĩa là từ phủ đi về phía tây bắc 130 dặm thì đến Phong Châu. Hai là từ phủ đi về phía tây bắc theo sông Tây Đạo, sau đó lại rẽ theo đường bộ đi 80 dặm nữa.

Khoảng cách dặm ngày xưa khoảng 0.5km. Vị trí phù hợp với thành Phong Châu theo mô tả trên là Fuchengzhen 府城镇tức là Phủ thành trấn. Bên cạnh có địa điểm Fengtouling/ 风头岭 tức là núi Phong Đầu (xem hình). Thực tế ở đây đất thấp và trống trải, còn núi ở cách về phía bắc vài km, có thể do bản đồ gán lệch vị trí này.

             Hình 3: Vị trí phù hợp với mô tả về thành Gia Ninh, trị sở Phong Châu

Hình 4: Fengtouling nằm gần sát phía dưới dãy núi chạy bao quanh như hình cái tán tròn, có thể tên vì vậy mà có tên Tản Viên/傘圓

Như vậy con đường Cao Biền đánh úp quân Nam Chiếu ở Phong Châu sau khi tiến vào Nam Định, chính là con đường từ phía đông. Chiếm được phía sau La Thành tức là chẹn con đường rút về của đối phương, trong lúc phía trước thành là con sông lớn, bởi vậy quân Nam Chiếu không thể rút được, đến viên chủ tướng là Đoàn Tù Thiên cũng phải chịu chém đầu.

3. Xác định vị trí Việt Thường, Cửu Đức, Hoan Châu

  • Theo Tấn thư thì quận Cửu Đức lập từ thời nhà Ngô, sang thời Tấn có 8 huyện là: Cửu Đức, Hàm Hoan, Nam Lăng, Dương Toại, Phù Linh, Khúc Tư, Phố Dương, Đô Hào (Tấn thư, quyển 15, chí 5: địa lý hạ ) [17]
  • Thủy kinh chú chép: “’Giao Châu ngoại vực ký” nói: huyện Cửu Đức thuộc quận Cửu Chân, ở phía nam của quận tiếp với quận Nhật Nam. Người Man tên là Lô Dư ở đất này. Dư chết, con là Bảo Cương thay, cháu là Đảng, phục tùng sự giáo hóa của nước Ngô. Ngô đặt làm quận Cửu Đức, lại đem huyện ấy lệ thuộc vào quận. “Lâm Ấp ký” nói rằng: Cửu Đức là nơi tột cùng của Cửu Di, cho nên lấy để đặt tên cho quận. Chỗ đặt tên ấy là một nước Di của Việt Thường Thị thời nhà Chu” [18]
  • Thái Bình hoàn vũ ký chép Hoan Châu là nước Việt Thường đời xưa, đời Hán thuộc quận Cửu Chân, đời Ngô đặt làm quận Cửu Đức, đời Tùy đặt làm Hoan Châu [19]

Trong quận Cửu Đức có thêm cả huyện Hàm Hoan vốn thuộc quận Cửu Chân. Theo kết quả từ bài viết trước, đã dẫn ở trên, biểu diễn vị trí Hàm Hoan và Cửu Đức như trên hình 01 của bài này.

Có  thể thấy quận Cửu Đức là sự mở rộng của khu vực huyện Cửu Đức, vốn đến thời nhà Đông Ngô mới bị thâu tóm, với huyện Hàm Hoan, tách từ Cửu Chân, và mở rộng về phía tây. Tức là quận Cửu Đức nằm giữa hai con sông là Zuo/Tả Giang và You/Hữu Giang, hiện bao gồm địa khu Sùng Tả + phần phía nam Bách Sắc và một phần của Nam Ninh. Đó là đất Việt Thường thời trước, theo như ghi chép ở trên. Dân cư vùng này hầu hết thuộc dân tộc Choang/Tráng.

Việt Thường thị, chữ Hán là 越 裳 氏. Chữ 越/Việt là người Trung Nguyên gọi chung nhiều nhóm dân tộc ở phía nam sông Trường Giang, chữ 氏/thị cũng là của người Trung Nguyên dùng để chỉ bộ lạc hay thị tộc. Chữ Thường/裳, bính âm là Cháng hoặc shāng hoặc sháng, gần với bính âm tên gọi người Choang/Tráng là Zhoàng.

Vậy có thể đi đến nhận định rằng người Hoa Hạ đã ghép từ Việt/越 mà họ gọi chung các tộc phía nam với tên phiên âm tộc Choang/Tráng để đặt tên cho nhóm Việt Thường thị, nghĩa là thị tộc Việt Choang.

Sách Thượng thư đại truyện, có từ thời Tần, cho biết ở phía nam giao có Việt Thường thị đến hiến chim trĩ trắng cho Chu Thành vương. Có lẽ Việt Thường thị đời Chu là nói về cả khu vực tộc Choang. Sử ký của Tư Mã Thiên, đời Hán,cho biết phía nam bộ Giao Chỉ có Việt Thường thị qua ba lần sứ dịch, sang dâng chim trĩ trắng. Thời của Tư Mã Thiên thì phần đất bị chiếm đã đổi thành Giao Chỉ, vậy chỉ định Việt Thường là phần chưa bị chiếm, ở phía nam Giao Chỉ. Theo Thủy kinh chú, vừa dẫn ở trên, vùng đó là là một nước di của Việt Thường thị, bị thôn tính cuối cùng, vào đời Ngô. Có lẽ vì vậy gánh cái tên Việt Thường vốn là của toàn thị tộc.

4. Vị trí các quận Tỉ Cảnh, Hải Âm, Lâm Ấp

Phần Lâm Ấp bị chiếm đã trở thành ba quận của nhà Tùy là Tỉ Cảnh, Hải Âm, Lâm Ấp.

Quận Tỉ Cảnh, hay còn gọi là Tỉ Ảnh. Quận chứa huyện Tỉ Ảnh của Nhật Nam thời trước, vậy đây là vùng đất nay là địa khu Sùng Tả thuộc Quảng Tây, ở sát biên giới phía đông bắc Việt Nam ngày nay, đến thế kỷ 11 trở thành nước Đại Nguyên Lịch của Nùng Trí Cao. Đây là vùng thường xuyên xảy ra tranh chấp giữa Lâm Ấp, và sau này là Đại Việt, với các triều đại ở Trung Quốc. Trong bài viết trước tôi đã chỉ ra vị trí thành Khu Túc của Lâm Ấp ở vị trí nay là trị sở địa khu Sùng Tả.

Đại Nam nhất thống chí, phần về đạo Hà Tĩnh chép: “núi Nam Giới ở địa phận xã Dương Luật, về phía Đông Bắc đạo thành, gọi là núi nam  Nam Giới vì xưa kia phía nam Cửa Sót thuộc Chiêm Thành”. Núi Nam Giới và Cửa Sót vẫn còn tên gọi ngày nay, mà cái tên Cửa Sót là sự gợi ý rằng ngày xưa ở khu vực đó vốn là các cửa của sông Lam, nhưng đã bị bồi lấp chỉ còn sót lại một cửa nhỏ. Một số ý kiến cho rằng ngày xưa cửa chính của sông Lam ở về phía nam của núi.

Nguyễn Văn Siêu dẫn Cựu Đường thư – Địa lý chí“Phúc Lộc Đường Lâm quận vốn là Phúc Lộc quận. Năm thứ hai niên hiệu Tổng Chương (669) quan Thứ sử Trí Châu Tạ Pháp Thanh chiêu dụ Sinh Lạo, Côn Minh, Bắc Lâu hơn 70 bộ lạc lấy đất của quân Lâm Ấp nhà Đường mà đặt ra. Năm đầu niên hiệu Thái Định [nhà Đường không có niên hiệu này, có thể chép bị sai] đổi ra An Vũ châu. Năm thứ 2 niên hiệu Chí Đức [757] đổi làm quận gọi là Đường Lâm. Năm đầu niên hiệu Càn Nguyên (758) lại phục lại tên cũ của châu”  [20]

Phúc Lộc, Đường Lâm, là đất thuộc mặt tây bắc của Thăng Long sau này.

Vậy thì có thể xác định trong hai quận Lâm Ấp và Hải Âm lập từ đời Tùy thì quận Lâm Ấp thuộc miền bắc Việt Nam, quận Hải Âm từ Ninh Bình hoặc Thanh Hóa vào đến núi Nam Giới, cách thành phố Vinh ngày nay khoảng 35km tính theo đường thẳng.

Biên giới đó chủ yếu chỉ tính theo dải đồng bằng ven biển, phía núi Lâm Ấp vẫn còn giữ được tới giáp Vân Nam và Hoan Châu (vị trí Hoan Châu đã được phân tích ở trên), tức là giữ cả khu vực tây bắc Việt Nam ngày nay.

III. Quá trình sử sách Trung Quốc biến Lâm Ấp thành Giao Chỉ

  1.  Giao Chỉ.

Năm 111 TCN nhà Hán sau khi diệt xong nước Nam Việt và thu phục các xứ phụ thuộc, đã chia miền Lĩnh Nam thành 9 quận, trong đó có quận Giao Chỉ. Cả khu vực được gọi chung là Giao Chỉ bộ, lấy theo tên quận lớn nhất.

Đầu thế kỷ 3, nhà Hán đổi Giao Chỉ bộ thành Giao Châu. Nhà Đông Ngô sau đó đã chia Giao Châu thành hai phần là Quảng Châu và Giao Châu. Châu trị của Giao Châu đặt ở huyện thành Long Biên thuộc quận Giao Chỉ.

Tư Mã Thiên, sử gia sống cùng giai đoạn nhà Hán thiết lập đô hộ ở Linh Nam, chép trong bộ Sử ký, thiên Bình chuẩn thư, như sau: “Nhà Hán đánh nhau trong ba năm liền; diệt Khương, tiêu diệt tới Nam Việt, lần đầu tiên đặt mười bảy quận từ Phiên Ngung tới phía tây đến phía nam đất Thục. Lại theo tục cũ của họ mà cai trị, không bắt nộp các thứ thuế”. Mô tả này nói đến không gian từ Quảng Đông qua Quảng Tây tới Vân Nam, nằm dọc phía nam miền Ngũ Lĩnh. Nếu như nhà Hán chiếm đến phía nam Trung Bộ Việt Nam thì Tư Mã Thiên sẽ không nói như thế.

Tác giả Cố Dã Vương, thế kỷ 6, cho biết trong sách Địa lý chí như sau: Giao Chỉ, thời Chu gọi là Lạc Việt, thời Tần gọi là Tây Âu. Nội dung này được nhiều sách chép lại, trong đó có Dư địa chí do Nguyễn Trãi khởi xướng.

Theo Sử ký của Tư Mã Thiên thì Tây Âu là nước nằm ở phía tây nước Nam Việt của Triệu Đà, sau bị Triệu Đà thu phục. Xét về phương vị phía tây so với thành Phiên Ngung của Triệu Đà thì Tây Âu, tức là Giao Chỉ hay Lạc Việt, chính là vùng đất thuộc Quảng Tây.

2. Lâm Ấp

Phía nam của Giao Chỉ bộ là nước Lâm Ấp, nay thuộc đất Việt Nam. Theo Lê Quý Đôn trich dân từ Thái Bình hoàn vũ ký thì Mã Viện đã đưa quân đánh chiếm Lâm Ấp, tức là sau khi dẹp xong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào năm 43 [21]. Lúc này Lâm Ấp trở thành một phần của Giao Chỉ bộ.

Các tài liệu sử Trung Quốc cho biết Lâm Ấp độc lập vào khoảng năm 193, nhân lúc nhà Hán có loạn lớn.

Tiếp đó là một thời kỳ Lâm Ấp phát triển mạnh về lãnh thổ cũng như về thương mại. Đồng thời giữa Lâm Ấp và Trung Quốc thường có tranh chấp ở khu vực Giao Châu.

Thời kỳ Giao Châu độc lập khỏi Trung Quốc và thuộc về bộ tộc người Lý ở địa phương, mở đầu là Lý Bí và kết thúc là Lý Phật Tử, kéo dài từ năm 541- 602, cũng được sử ghi nhận là có chiến tranh với Lâm Áp. Lương thư cho biết, năm 543 vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, tướng của Lí Bí là Phạm Tu đánh tan ở quận Cửu Đức.

Nhà Tùy sau khi chấm dứt được tình trạng Nam Bắc triều ở Trung Quốc, năm 602 đã sai Lưu Phương cầm quân đánh Giao Châu và thu phục được Lý Phật Tử. Năm 605 Lưu Phương lại đánh chiếm một phần nước Lâm Ấp, giúp nhà Tùy lập được ba quận là Tỉ Cảnh, Hải Âm, Lâm Ấp, đặt dưới quyền quản lý của Hoan Châu tổng quản phủ, như đã được nêu ở phần đầu bài viết.

Lúc này Giao Châu tổng quản phủ, còn có tên là An Nam tổng quản phủ, là một đơn vị khác, ở phía bắc.

Đến khi hai tổng quản phủ gộp lại, rồi sau đó vào năm 768 đổi thành An Nam đô hộ phủ, thì phần đất nhà Đường chiếm được nằm trên đất Việt Nam ngày nay mới dính vào trở thành bộ phận phía nam của An Nam. Do An Nam là khái niệm hình thành từ Giao Châu hay Giao Chỉ, nên được sử dụng song song. Do sáp nhập nên phần vốn là Lâm Ấp bị nhập vào, tức là trên đất Việt Nam ngày nay, cũng có thể được gọi là Giao Châu, Giao Chỉ hay An Nam.

3. Việc gây ngộ nhận

Vấn đề là sau đó trên phần đất phía nam lại cũng có Giao Châu, Ái Châu…, mà người ta vô tình hoặc cố ý không phân biệt, nên cứ cho đấy là Giao Châu ban đầu.

Một số diễn biến về giai đoạn từ Khúc Hạo đến triều đại họ Ngô đã được chép lại trong bộ Tân Ngũ đại sử (q.65 – Nam Hán thế gia), chứng tỏ các châu này đã được nhà Đường đặt ra trên đất Việt Nam,

Việc đặt tên như vậy là do sự tùy tiện hay phục vụ ý đồ ngụy tạo lịch sử?

Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc xem xét vấn đề người Trung Quốc trước thời Đường chép sử về phương nam.

Khoảng đầu thế kỷ thứ 3, người Trung Quốc đã cử sứ giả tới tận nước Phù Nam ở phía nam bán đảo Đông Dương để kết giao. Viên sứ giả tên là Khang Thái đã viết một quyển sách tên là Phù Nam ký. Dĩ nhiên họ không thể không quan tâm đến xứ Lâm Ấp ở phía bắc Phù Nam. Đã có người viết cuốn sách là Lâm Ấp ký. Cả hai cuốn này và một cuốn ghi chép về Giao Châu là Giao Châu ngoại vực ký được Lịch Đạo Nguyên tham khảo và trích dẫn đưa vào tác phẩm Thủy kinh chú, đầu thế kỷ 6. Về sau ba cuốn sách đó đều thất truyền.

Một sự biến mất đáng chú ý nữa, là bộ sử chính thức của nhà Đông Hán (Hậu Hán) là Đông Quán Hán ký (东观汉记), việc này xảy ra chủ yếu dưới thời nhà Đường. Bộ Hậu Hán thư của Phạm Diệp, biên soạn ở thế kỷ 5, đóng vai trò thay thế. Hậu Hán thư không nói đến việc Mã Viện đi xuống phía nam đánh chiếm Lâm Ấp, sau khi đánh dẹp Hai Bà Trưng, vậy coi như Lâm Âp thuộc về Trung Quốc từ trước đời Đông Hán. Có thể cho rằng sử quan nhà Đường đã biên tập chỉnh sửa sử liệu, cho lưu hành một cách chọn lọc và định hướng.

Trong cuốn sách Thuỷ kinh chú, vị trí các huyện thành của Giao Châuhầu hếtđược mô tả là nằm trong hệ thống sông Uất Thủy, tức là sông Tây Giang. Điều đáng nói là trong cuốn sách có vài chỗ xây dựng quan niệm rằng sông Uất Thủy không chỉ là sông Tây Giang như ngày nay hiểu, dòng chảy của nó không dừng ở cửa biển mà chảy mãi theo bờ biển xuống phía nam, do đó các con sông ở phía nam dù trên thực tế đổ ra biển cũng được chép là đổ vào sông Uất Thủy.

Khi chấp nhận quan niệm đó thì sẽ chấp nhận được việc các huyện thành của Giao Châu, có sông đổ vào Uất Thủy, không ở trên lưu vực sông Tây Giang, mà ở phía Việt Nam. Những người có nghiên cứu Thủy kinh chú để dựa vào đó xác định các địa danh xưa, như H. Maspero, C. Madrole, Dương Thủ Kinh, Hùng Hội Trinh, Đào Duy Anh…đã chấp nhận rằng đó đúng là quan niệm của Lịch Đạo Nguyên trong tác phẩm Thủy kinh chú.

Tuy nhiên, khi bóc ra được sự thật là ở thời của Lịch Đạo Nguyên, thế kỷ 5-6, Giao Châu là đất ở Quảng Tây, còn phía Việt Nam là đất Lâm Ấp vẫn độc lập, thì có thể hiểu rằng nhà địa lý Lịch Đạo Nguyên không hề có quan điểm kỳ dị đó, mà thực chất về sau ai đó đã sửa chữa sách của ông để ngụy tạo ra, nhằm làm chứng cứ giả, phục vụ sự gán ghép.

Trong Thủy kinh chú còn có một giải thích về tên Long Biên, vốn từ Long Uyên chuyển thành: “năm Kiến An thứ 23 (218) khi mới lập châu, thuồng luồng cuộn khúc ở hai bờ nam bắc, vì vậy mới đổi Long Uyên thành Long Biên”[22]. Tuy nhiên nhiều người phát hiện thấy việc đổi tên là vì nguyên nhân khác. Lê Quý Đôn chép rằng Nhị Hán chí (tức là hai bộ Hán thư) đều nói chữ “uyên” là tên húy vua nhà Đường nên Sư Cổ và Chương Hoài đổi làm Long Biên. Vua Đường ở đây là Đường Cao Tổ Lý Uyên, Sư Cổ tức là học giả Nhan Sư Cổ, đầu thời nhà Đường, được giao làm chú thích bộ Hán thư và nhiều sách khác, Chương Hoài tức là Thái tử Lý Hiền. Nếu đúng như vậy thì sử quan nhà Đường đã viết lại các sử liệu đời trước, đổi hết các chữ Long Uyên thành Long Biên, và đoạn Thủy kinh chú nói trên cũng là sản phẩm ngụy tạo dưới thời Đường.

Thủy  kinh chú có vài đoạn như sau: “Ưng Thiệu nói trong “Địa lý phong tục ký” rằng Nhật Nam là Tượng Quận cũ của nước Tần” [23], và: “nước Lâm Ấp là biên giới phía nam của nước Việt Thường. Thời Tần, thời Hán là huyện Tượng Lâm thuộc Tượng Quận. Phía đông kề biển xanh, phía tây bên cạnh nước Từ Lang, phía nam giáp với nước Phù Nam, phía bắc liền với Cửu Đức, sau bỏ tên Tượng Lâm khôi phục lại Lâm Ấp” [24]

Việc gán Nhật Nam vào Tượng Quận, đến cuối thế kỷ hai mươi đã bị giới sử học, kể cả người Trung Quốc, bác bỏ. Một điều dễ nhận thấy là nếu Nhật Nam là đất Tượng Quận, đã bị quân Tần xâm chiếm, thì tại sao nước Âu Lạc nằm trên con đường xuống Nhật Nam vẫn tồn tại đến sau thời Tần?

Việc gán Lâm Ấp vào huyện Tượng Lâm của quận Nhật Nam cũng đã được tôi chứng minh là sai, đồng thời tôi cũng dựa vào nhận diện các con sông được mô tả trong Thủy kinh chú để chỉ ra được vị trí của hai khu vực khác nhau đó. Đây cũng là một bằng cớ chứng minh là Lịch Đạo Nguyên không hề ngộ nhận hay có quan điểm kỳ dị về địa lý, mà ai đó về sau đã ngụy tạo một số chi tiết trong sách của ông để làm chứng cứ lịch sử.

Trong những năm đầu thế kỷ 9, viên tể tướng nhà Đường, từng làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam, là Đỗ Hựu hoàn thành một công trình sử học lớn tên là Thông điển, tác phẩm rất có ảnh hưởng về sau. Trong Thông điển, điều về Lâm Ấp cho biết“Nước Lâm Ấp thời Tần là đất huyện Lâm Ấp thuộc Tượng quận. Thời Hán là quận Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam, là địa giới Việt Thường ngày xưa vậy” [25]. Đoạn chép này giống với đoạn ngụy tạo Thủy kinh chú nói trên ở chỗ đều nói là Lâm Ấp thuộc Tượng Quận đời Tần và thuộc Nhật Nam đời Hán.

Theo đó thì đất Lâm Ấp [mà thời của Đỗ Hựu biên giới có thể đến khoảng Phú Yên ngày nay] đã là đất của Trung Quốc từ thời Tần, về đời Hán, ở đó là quận Nhật Nam.

.

Khoảng thời gian giữa hai tác phẩm này không có ai chép như vậy. Có lẽ vì xem sót đoạn Thủy kinh chú hay lý do nào khác mà Henry Maspero còn cho rằng Đỗ Hựu là người đầu tiên nêu lên thuyết Tượng Quận là Nhật Nam, trong bài viết trên tạp chí BEFEO, XVI (1916-1917).

Do chúng ta đã thấy rằng đoạn chép trong Thủy kinh chú là ngụy tạo, nhiều sử liệu đã bị can thiệp sửa chữa vào thời nhà Đường, thì có thể nói rằng nhận xét của Henry Maspero tưởng chưa đúng nhưng thực ra lại đúng. Có nghĩa Đỗ Hựu rất có thể là người tạo ra cái nhận thức này. Ông không chỉ chép trong Thông điển mà còn ngụy tạo cả Thủy kinh chú. Xét thêm về quyền lực và ý thức chính trị của một tể tướng, tài năng về mặt sử học, hiểu biết về miền Lĩnh Nam do từng có thời gian trấn nhậm, về việc lấy tên Giao Châu và một số châu khác ở phía bắc đặt xuống cho phía nam trong giai đoạn nửa sau của nhà Đường, thì khó có thể là ai khác tạo dựng được thuyết này ngoài Đỗ Hựu.

Thuyết ngụy tạo đó trên thực tế đã phát huy tác dụng. Cho đến ngày nay, nhận thức đất Trung Quốc kiểm soát ngày xưa từng kéo dài tới trung hoặc thậm chí nam Trung Bộ Việt Nam đã là một tín điều, một nền tảng lịch sử.

Một minh họa nữa cho quan điểm đầy tham vọng của Đỗ Hựu, là lại chép việc Mã Viện đời Đông Hán đánh Lâm Ấp, đi xuống phía nam 2.000 dặm, dựng cột đồng làm giới hạn đất đai của nhà Hán nơi biên giới với nước Tây Đồ. Theo Lê Quý Đôn, một học giả khác là Tống Bạch, thời Tống, đã đưa ra con số là 200 dặm chứ không phải 2.000 dặm [26]. Trong bài viết Vị trí của nước Tây Đồ, tôi đã chứng minh rằng con số của Tống Bạch đưa ra là phù hợp với thực tế. Biên giới phía nam nước Lâm Ấp thời Mã Viện chính là dãy núi Tam Điệp, phía nam là nước Tây Đồ, là khu vực Thanh Hóa ngày nay. Nơi được cho là Mã Viện dựng cột đồng là núi Mai An Tiêm ở phía cực đông của dãy Tam Điệp.

Với việc chứng minh An Nam phủ là Ung Châu kể cả sau thời Đỗ Hựu, thì có thể thấy rằng sự nhầm lẫn là một quá trình dài chứ không phải chỉ trong thời nhà Đường.

Ghi chép về con đường kênh trong sách Bắc mộng tỏa ngôn của Tôn Quang Hiến (900-968), đã chép ở phần I, cho thấy tác giả có lẽ ghi chép độc lập này đã không chép sai về Giao Chỉ. Vậy nhưng khi nhóm Ấu Dương Tu soạn bộ Tân Đường thư theo lệnh của triều đình Bắc Tống, giữa thế kỷ 11, họ đã chép về  Thiên Uy như sau:

Từ An Nam đến Quảng Châu, đường sông ghềnh thác hiểm trở, có nhiều đá lớn, Biền bèn mộ thợ đục phá đi, vì vậy thuyền bè đi lại được bình yên, lương thảo được vận chuyển đầy đủ. Lại thêm, sứ giả hàng năm đều phải tới, nên Biền cho mở năm đường đi lại, đặt quân hộ tống. Đường qua một nơi có khối đá xanh, có người truyền rằng xưa Mã Viện không thể phá được, Biền bèn cho công phá, chợt có sét đánh tan khối đá ấy, đường bèn thông, nhân đó gọi tên là đường Thiên Uy” [27]

Phần trước của đoạn văn bản này nói rằng nhờ Cao Biền phá đá trên đường sông mà thuyền bè vận chuyển qua lại từ An Nam đến Quảng Châu được thông suốt. Phần sau thì cho rằng Thiên Uy là con đường khai phá thêm, mặc dù đường sông đã thông suốt.Rõ ràng Âu Dương Tu có ý cho rằng còn phải thêm vào đoạn đường bộ từ phủ An Nam đến Quảng Châu. Điều này vừa ngụ ý rằng phủ An Nam không ở trên khu vực Tây Giang, vừa có thể giúp giải thích phủ An Nam lẫn cả xứ An Nam, hay là Giao Chỉ, đều ở trên đất Đại Việt của nhà Lý đương thời. Ý tứ phần sau hoàn toàn không phù hợp với nội dung bài Quá Thiên Uy kính của Cao Biền và ghi chép trong Bắc Mộng Tỏa Ngôn của Tôn Quang Hiến. Đó là sự ngụy tạo.

Chúng ta hay xem xét một văn bản nữa, là bài văn bia Kênh Thiên Uy. Nội dung bài văn này được Lê Tắc chép vào sách An Nam chí lược. Lê Tắc là người Việt, nhận là dòng dõi Thứ sử Nguyễn Phu thời Đông Tấn, năm 1285 đầu hàng và theo quân Nguyên về sống ở Trung Quốc. Tác phẩm An Nam chí lược được viết khoảng sau năm 1300. Bài văn chép theo bia do Thái thú Ung Châu là Hoắc Trung Cẩn dựng vào năm Thiệu Thánh thứ 5 (1098), trên đó nói là khắc lại nhân tìm thấy bản khắc cũ thời Cao Biền.

Phụ chép bài văn bia Thiên Oai kỉnh, đường kênh mới đào

Biển lớn không bờ, xa tít tận chân trời mờ mịt, cuồng phong cuồn cuộn, sóng lớn nổi dậy, như gò cát trôi, như núi tuyết dựng, nháy mắt trắng xóa muôn dặm, dầu oai linh thủy thần cũng không ngăn cản nổi. Cá voi to sợ sức dày vò, con trạch lớn mắc vòng vây khốn, loài thủy tộc lớn lao như thế còn chẳng được yên, huống thuyền bè ngang qua, làm sao đi được. Bởi thế, có nhiều thuyền chìm đắm không thể cứu vớt. Có cứu vớt đặng chăng là nhờ Thiên Oai Kỉnh ngày nay vậy.

Từ Đông Hán Mã Phục Ba muốn đánh hai chị em họ Trưng để thu phục Giao Chỉ, vì đường sá chuyển vận khó khăn, phải vượt qua bể cả, bèn đục đá đào núi, để tránh đường biển, nhưng lúc làm công việc, nhân công chết hàng vạn người cũng không làm nổi; nhiều khi sét đánh làm cho đá lớn trên núi lăn xuống ngáng đường; Phục Ba cũng chẳng làm sao được, bèn phải đình chỉ công việc.

Từ ngày Hoàng Đường ta lập cuộc đô hộ, nghe kể chuyện cũ, nổi giận, muốn kế tục làm nốt công việc,bèn khiến khởi công làm lại, nhưng hao tài tốn của, mà công việc làm cũng không nên, dân phu đi làm chết chóc bỏ đầy đường. Sau đó không ai dám bàn đến việc ấy nữa.

Từ ngày Kỵ Xạ Bột Hải Công ra đánh Mán rợ, vượt bể cả, dẹp yên Giao Chỉ, thu phục quận thành, ruổi ngựa mài gươm, lập đồn đóng trại, nhưng vận chuển lương thực còn phải xông pha sóng gió; bàn luận chước mưu, chưa được đồng ý một kế hoạch nào hay. Bột Hải công nói rằng: “Chúng ta chinh phục phương nam, mở rộng oai phong của hoàng gia, họp binh để an dân, phải chịu tốn kém, mới tiện cho công việc, bèn khiến bọn trưởng sử Lâm Phúng và Hồ Nam tướng quân Dư Tồn Cổ lĩnh bản bộ tướng sĩ và lấy them dân phu hơn một nghìn người, đem đi khai phá Thiên Oai Kỉnh. Bột Hải Công dụ rằng: “Đạo trời giúp thuận, sức thần phò trì; này chúng ta đào dòng biển để cứu sinh linh,nếu làm việc ngay thẳng thì chẳng có gì khóCác quan đô hộ trước lại khao quân, mà chẳng đến nơi, giữ phép không nghiêm, nhân việc công để thu lợi riêng, bởi thế người đều biếng trễ. Nay ta chẳng thế, cốt làm cho được việc nhà vua mà thôi. Bọn Lâm Phúng vâng lời ra đi.

Bắt đầu từ ngày mùng 5 tháng 4 năm Hàm Thông thứ 9 (868) mọi người tay cầm cuốc xuổng, dự bị tiền lương, gặp núi đá đào phăng, chẳng sợ gì cứng rắn, gặp những tảng đá lớn và dày thì đông người hợp sức giúp tay, đập phá cạy xeo, chỉ trong vòng hơn một tháng đường gần mở xong. Nhưng chặng giữa có hai đoạn, gặp đá lớn chơm chởm, dăng quang mấy trượng, cứng rắn như sắt, không thể đào thông, đục tra xuống thì mũi cong, búa đập vào thì cán gãy, dân phu ngó nhau ngã lòng, tay chân bải hoải, chẳng làm thế nào được. Ngày 16 tháng 5, giữa lúc ban ngày, thình lình mây kéo đen đặc, gió thổi ào ào, rừng núi tối mờ, ngửa bàn tay không thấy, bỗng sấm vang chớp nhoáng, ở sở làm có vài trăm tiếng sét đánh dồn, dân phu khiếp đảm, run rẩy, bưng tai bịt mắt, một lát sau, trời quang mây tạnh, chúng chạy ra xem, thì đống đá gan lì bỗng dưng tan nát, có những hòn lớn cồng kềnh, sức người không sao xoay nổi, đều bị rồng cuốn vứt ra hai bên. Lại ở phía tây có những tảng đá rắn chắc, đến ngày 11 tháng 6 sấm sét lại đánh dữ dội như ở phía đông, chúng chạy đến xem, thấy đá tiêu tan đâu mất, những hòn đá quanh co ở hai bên bị phá vỡ chừng mười trượng. Đi lên phía tây lại gặp phải đá lớn, người chịu bó tay, chỉ vái trời giúp đỡ, thì sấm chớp lại nổi lên, đá bị đánh tan, suối nước tuôn ra như mùi rượu ngọt. Ấy là càn khôn giúp sức, thần lực phò trì, lối hiểm đường nguy, một giây san phẳng đều nhờ Bột Hải Công lòng không riêng vạy, tinh thần cảm thấu trời xanh, hoàn thành việc lớn, thần diệu vô cùng, được sức mặc tướng âm phò, từ xưa không ai sánh kịp. Từ nay một mạch lưu thông, hai hồ liên tiếp, không còn một chút trở ngại; quan quân kinh quá, biển nước chẳng sợ gian nguy, lương hướng chở chuyên, thuyền bè không lo chìm đắm. Từ trước đường đi Giao Chỉ có ba nơi nguy hiểm: 1. Mũi Hoa Chùy ở bãi Tống Động, sóng to cuồn cuộn; 2. Rặng Thạch Giốc ở vũng Nữ Âu có cá mập vẫy vùng; 3. Sóng thần Đại Gia dữ dội, ai đi qua đó đều rởn ốc lạnh mình.

Ngày nay dòng êm đường thẳng, chẳng phải đi qua những nơi nguy hiểm ấy nữa.

Than ôi! Công cán của Bột Hải Công có thể ngang với người đào Hứa Cừ và mở Quế Lĩnh để giúp người đời. Bọn Lâm Phúng và Tồn Cổ siêng lo việc nước, mẫn cán tinh chuyên, ngoài công việc chỉ huy còn biết xem địa thế, xẻ núi đốn cây, sửa công quán, lập thương đình, suối đào cho nước thông, cầu bắc ngang như mống dựng, miếu thần chùa Phật, đền thờ Thiên Lôi, nhà thờ Lão Tử đều xây cất đầy đủ để lưu truyền đời đời. Ngày 15 tháng 9 năm nay hoàn thành, bọn Lâm Phúng và Tồn Cổ nài xin dựng bia, để đời sau được biết. Tôi là Bùi Hình chẳng dám khiêm nhường từ chối, cầm bút làm bài minh rằng:

Trời đất mênh mông, sức người hèn yếu

Đường nguy chở gạo, biển cả vượt thuyền

Chẳng mấy lúc yên, đắm nghiêng thường bị

Ông tôi quyết kế, đào núi xẻ ngàn

Công tác gian nan, sấm chớp vang dậy

Biển thông lối chảy, thuyền qua dễ dàng

Sông nước bắng phẳng, thuận đường vận tải

Đạo trời khai phá, oai thần phò trì

Ngày 13 tháng giêng năm Hàm Thông thứ 11 [870] dựng bia

Nền cũ ở phía Nam Giao Chỉ, thời Hàm Thông [860-873] Bột Hải Công Cao Biền đi đánh phương nam, mở đường vận tải lương thực, có sét trời đánh giúp, bèn dựng đá lớn ghi công. Lối đi đặt tên là Thiên Oai. Đến đời Chiêu Hy [Chiêu Tông (889-903), Hy Tông (874-888)], Trung Nguyên loạn lạc, bỏ ra ngoài bờ cõi, không ngó đến, nhà Tống ta nhân theo, cũng chẳng sửa chữa đường đi ngoại bang. Thái thú Ung Châu là Hoắc Trung Cẩn tình cờ tìm thấy bản khắc cũ, sợ ở chỗ xa xôi, lâu ngày vùi lấp thất truyền, bèn khiến thợ khắc đá, dựng ở bên hữu sảnh đường, ý muốn tỏ cho người xa biết được thánh đức của nhà vua, hằng năm phải lo việc tiến cống, không nên trễ nải vậy.

Ngày 21 tháng Giêng năm Thiệu Thánh thứ 5 [1098]” [28]

Nội dung bài văn bia cho rằng con đường đi xuống Giao Chỉ vốn là con đường biển, nhưng con đường này nguy hiểm nên từ Mã Viện đến Cao Biền đã tìm cách đục đá đào núi làm con đường qua Ung Châu để tránh biển.

Đoạn văn gán sự nguy hiểm rất cao cho con đường thủy ven biển thể hiện sự thổi phồng quá đáng, không phù hợp với thực tế. Một điều không hợp lý nữa, con đường thủy qua Ung Châu mặc dù còn đi thêm được rất xa nữa nhưng không hề thông suốt đến Việt Nam. Tức là người ta đã ngụy tạo bản văn này, gán vào thời Cao Biền.

Tại sao họ không nói thẳng Mã Viện xuống Giao Chỉ theo đường biển mà lại tìm cách giải thích vòng vèo về con đường qua Ung Châu? Phải chăng cho đến thời Tống vẫn còn những chứng cứ Mã Viện đã đi theo con đường đó, không thể bác bỏ được nên phải tìm cách giải thích hợp lý rằng đó là nơi Mã Viện đi qua, chứ không phải là nơi đánh dẹp? Việc ngụy tạo lịch sử, mà nhà Tống tiếp nối nhà Đường, có lẽ còn nhằm xóa bỏ ký ức của dân chúng Lĩnh Nam.

Thực tế đúng là ở Quảng Tây có một số miếu thờ Mã Viện. Sứ đoàn Lê Quý Đôn trên đường đi sứ về ngang qua Hoành Châu, nay thuộc địa khu Nam Ninh, đã ghé ngôi miếu ở đây bái yết, chi tiết được chép lại trong sách Bắc sứ thông lục. Người dịch và chú giải Bắc sứ thông lục sách là Nguyễn Thị Tuyết còn cho biết là sách Hoành Châu chí chép: “Miếu Phục Ba ở bến Ô Man. Khi Phục Ba tướng quân Mã Viện đời Hán đem quân tiến đánh Giao Chỉ, đã trú binh ở đây, người đời sau  lập miếu thờ tự ông” [29]

Hình 5: Miếu Phục Ba ở Hoành Châu, thờ Mã Viện

Ngày nay, trên phương diện chính thức, người ta không những không gỡ bỏ sai lệch mà còn tìm cách củng cố, để bịt các lỗ hổng ngày càng bộc lộ do việc xã hội dễ dàng tiếp cận các tư liệu và bản đồ chính xác.

Trên các bản đồ lịch sử do Trung Quốc vẽ ngày nay, họ vẽ An Nam đô hộ phủ/安南都护府 mở to ra phía tây ở phía Hà Tĩnh để cho phù hợp với mô tả Hoan Châu từng quản lĩnh tới 8 châu.

Hình 6:  Bản đồ An Nam đô hộ phủ do Trung Quốc vẽ

Trấn Hải Môn, nơi quân nhà Đường tạm lui về đó sau khi mất phủ đô hộ về tay người Nam Chiếu, cũng được thay đổi vị trí. Trước đây, đến thời nhà Thanh thì Đại Thanh nhất thống chí vẫn cho là ở huyện Bác Bạch/博白/Bobai, thì nay được cho là ở vùng Hải Phòng của Việt Nam, để cho hợp lý về khoảng cách với phủ đô hộ, được gán cho Hà Nội.

IVChủ trương chép sử của các triều đình Đại Việt

  1. Các triều đình Đại Việt có hoàn toàn bị ngộ nhận?

 Đại Việt sử ký toàn thư cho biết năm Đinh Mão (907) nhà Lương cho Quảng Châu tiết độ sứ là Lưu Ẩn kiêm giữ chức Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Khi ấy Ẩn ở Phiên Ngung, người Giao Châu là Khúc Hạo chiếm giữ nơi châu trị, tự xưng là Tiết độ sứ. Khúc Hạo chết, con là Khúc Thừa Mỹ nối ngôi. Năm Kỷ Mão (917) Khúc Thừa Mỹ vận động nhà Lương và được thừa nhận. Lúc này Lưu Ẩn đã chết, em là Lưu Nham thay thế, sau đó lập nước Nam Hán. Năm Quý Mùi (923), Lưu Nham cử quân đánh Giao Châu, bắt được Khúc Thừa Mỹ đem về. Năm 931, tướng của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ, người Ái Châu, đuổi được quân chiếm đóng. Thời kỳ độc lập của nước Việt được khởi đầu như thế.

Khúc Hạo tự chiếm giữ Giao Châu và tự xưng Tiết độ sứ ở trên đất Việt Nam, mở ra thời kỳ độc lập. Lúc này thủ phủ Ung Châu thuộc quyền kiểm soát của Lưu Ẩn. Vì vậy sẽ rất thiếu cơ sở nếu cho rằng các triều đại sau đó không ý thức được phần nào sự thực lịch sử nên bị sử sách Trung Quốc thao túng nhận thức.

Xin nêu một số chứng cứ cho thấy các triều đại Việt Nam đã thực hiện việc chế biến lịch sử.

  • Về kênh Thiên Uy

Bộ sách Việt sử lược được soạn dưới thời nhà Trần chép là: “Cao Biền thấy đường biển từ châu ta đến Ung, Quảng có nhiều đá ngầm làm lật thuyền, vận tải không được thông, bèn sai trưởng lại là bọn Lâm Phúng khai đào” [30]

Sử thời Trần đã xác định lại Thiên Uy là con đường thủy, mà trong trường hợp này thì không thể gán vào khúc sông từ Thăng Long ra đến biển, vì không chỗ nào có đá ngầm. nên đã gán vào biển. Thế nhưng kênh sao lại ở trên biển, biển rộng mênh mông mà lại phải nhọc công phá đá làm đường? Đó là chỗ mâu thuẫn khi ngụy tạo lịch sử.

Trong An Nam chí lược, ngoài chỗ phụ chép bài văn bia kênh Thiên Uy như đã dẫn ở trên, ở một phần khác, Lê Tắc chép như sau: “Biền thấy từ quận Nam Hải đến quận Giao Châu, có đá ẩn dưới nước, thuyền to thường hay chìm, bèn tâu với vua xin phá đá ấy. Từ đó nhân dân hai xứ Giao, Quảng đi ghe thuyền trên bể được bình yên” [31]

Ghi chép này chứng tỏ Lê Tắc cũng còn biết một thuyết khác, ghi nhận Thiên Uy là con đường biển. Vì đây vừa không phải là chủ trương chép sử của nhà Tống, lại vừa giống với Việt sử lược của nhà Trần, nên rất có thể Lê Tắc thu nhận cách giải thích này ở trong nước, trước khi sang Trung Quốc.

Bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư soạn ở thế kỷ 15, dưới thời Lê đại khái cũng chép giống Việt sử lược. Tức là khai con đường kênh Thiên Uy trên biển.

Như vậy, từ thời Tống ở Trung Quốc và muộn nhất là từ thời Trần ở Đại Việt, hai bên đều muốn gán thành Thăng Long với La Thành, tức là gán Đại Việt với An Nam thời Đường, nhưng đã tìm cách hóa giải câu chuyện kênh Thiên Uy bằng hai cách khác nhau. Phía nhà Tống còn vướng các chứng cứ về Cao Biền và Mã Viện trên đất người Choang và họ cũng cần ngụy tạo lịch sử cho khu vực này, trong khi phía Đại Việt chỉ có mục đích giải thích về một con đường thủy thông suốt từ Thăng Long lên phương bắc.

  • Câu chuyện Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng là một thí dụ khác về việc ngụy tạo lịch sử.

Nhân vật Phùng Hưng không được các bộ sử Trung Quốc và bộ Việt sử lược nhắc đến, nhưng được chép trong Việt điện u linh tập đời Trần, và trong Đại Việt sử ký toàn thư đời Lê.

Theo Việt điện u linh tập, Phùng Hưng người châu Đường Lâm,ở phía tây phủ.Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Phùng Hưng người xã Đường Lâm thuộc Giao Châu. Năm 791 Phùng Hưng dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ An Nam, khiến Đô hộ Cao Chính Bình lo sợ mà chết. Phùng Hưng nhân đó đóng ở phủ, sau khi mất được tôn là Bố Cái Đại Vương, có đền thờ ở Đường Lâm.

Tân Đường thư – q170 – Triệu Xương truyện không nhắc đến Phùng Hưng và địa danh Đường Lâm, mà cho biết Đỗ Anh Hàn, tù trưởng người Lạo, là thủ lĩnh cuộc nổi dậy khiến Đô hộ Cao Chính Bình lo sợ mà chết. Người Lạo tức là nhóm người Choang, sống chủ yếu ở Quảng Tây Trung Quốc. Với việc đã chứng minh An Nam đô hộ phủ ở Quảng Tây chứ không ở Việt Nam thì có thể thấy Tân Đường thư đã chép chính xác hơn.                                                                                                                                                             Như vậy, cuộc nổi dậy của Phùng Hưng ở Việt Nam phải là một sự việc khác. Người ta gán vào làm một bằng cách biến viên thủ lĩnh Đỗ Anh Hàn thành một người cùng làng Đường Lâm, hiến kế giúp Phưng Hưng. Qua việc này để chứng minh Phủ đô hộ An Nam thời Đường ở trên đất Việt Nam, có làng Đường Lâm ở phía tây phủ.

  • Một trường hợp khác, là câu chuyện Mai Thúc Loan.

Hiện vẫn tồn tại nhiều tranh cãi quanh nhân vật Mai Thúc Loan trong giới sử học, nhưng có vẻ như tất cả đều có chung nhận thức là sự kiện này xảy ra trên đất Việt Nam.

Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: Năm Nhâm Tuất (722) tướng giặc là Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là có 30 vạn người. Đường Đế sai nội thị tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Húc và đô hộ Quang Sở Khách đánh dẹp được.

Tân Đường thư – q227 – Dương Tư Húc truyện: Thủ lĩnh người man ở An Nam là Mai Thúc Loan làm phản, xưng hiệu là Hắc Đế, đem quân ba mươi hai châu, bên ngoài giao kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân, chiếm cứ hải nam, nói rằng quân có bốn mươi vạn. Dương Tư Húc cùng Quang Sở Khách dẫn mười vạn quân theo đường cũ của Mã Viện bất ngờ tiến sang, đánh bại Mai Thúc Loan.

Giai đoạn này An Nam vẫn còn là đất ở Quảng Tây, con đường tiến quân của Mã Viện là con đường tiến vào Nam Ninh trên đất Quảng Tây. Nước Kim Lân, theo các sử sách Trung Quốc thì nằm ở phía tây nước Phù Nam tức là ở trên đất Thái Lan hoặc Miến Điện thời nay, tuyến đường từ An Nam sang phía tây là một tuyến quan trọng nối Trung Quốc với bên ngoài.

Xét tất cả các yếu tố đó thì cuộc nổi dậy của Mai Thúc Loan có trung tâm ở Quảng Tây chứ không phải ở vùng Nghệ An của Việt Nam ngày nay. Quy mô cho thấy đây là một sự liên kết của khối Đông Nam Á chống lại nhà Đường, vì vậy mới nói là quân số có 30 vạn hay 40 vạn.

Chi tiết cống vải, có lẽ được sử gia sưu tầm đâu đó, cũng là một chi tiết gây tranh cãi vì bất hợp lý. Nếu hiểu được Mai Thúc Loan thực tế là thủ lĩnh ở Lĩnh Nam, vùng nổi tiếng về quả vải, mà không đến mức xa xôi như ở miền trung Việt Nam, thì chuyện cống vải có lẽ là một sự thật. Chỉ vì đặt câu chuyện này vào Hoan Châu ở Việt Nam nên mới có vẻ vô lý.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư, sử thần Ngô Sĩ Liêncho rằng Mai Thúc Loan là giặc, chép cũng theo sử sách Trung Quốc, khá sơ sài. Từ thời Lê Trung hưng, mới có nhận thức lại và tạo dựng các di tích, huyền thoại về nhân vật này.

  • Câu chuyện vua Hùng

Từ lâu giới nghiên cứu lịch sử đã bối rối về giữa gọi Hùng Vương và Lạc Vương. Với việc chỉ ra vị trí của Phong Châu, Gia Ninh, Mi Linh cùng với thực tế đây là đất của người Lạc Việt, tức là người Choang, thì có thể kết luận rằng tên gọi Lạc Vương là đúng. Giao Châu ngoại vực ký, được Thủy kinh chú dẫn lại, cũng chép là Lạc. Từ đó mới có Lạc hầu, Lạc tướng. Hầu hết các sách đều chép là Lạc chứ không chép là Hùng.

Việc gán Hùng với Lạc được thấy trong Cựu Đường thư và Thái Bình quảng ký: “Nam Việt chí nói đất Giao Chỉ rất màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng vương, giúp việc là Hùng hầu. Về sau Thục vương đem 3 vạn quân đánh tiêu diệt Hùng vương. Vua Thục cho con làm vua là An Dương vương cai trị Giao Chỉ”, : “Giao Chỉ đất đai rất tươi tốt. Di dân đến đó, rồi mới biết trồng cấy. Đất đen xốp màu mỡ, khí đất hùng mạnh. Vì vậy ruộng đất ấy gọi là hùng điền, dân ấy là hùng dân. Có các bậc quân trưởng cũng gọi là các hùng vương; còn các phụ tá thì gọi là hùng hầu. Đất đó được phân chia ra mà có các hùng tướng”. Có thể thấy tuyến tài liệu này đã bị làm giả. Sử Việt có thể đã dựa vào nhưng chi tiết ngụy tạo đó để viết câu chuyện Hùng Vương.

  • Tín ngưỡng

Tín ngưỡng thờ nữ thần, nay ở khu vực phía bắc còn có tên là Đạo Mẫu, là tín ngưỡng tồn tại trải rộng khắp các vùng trên lãnh thổ Việt Nam, được thừa nhận là đã có từ rất lâu đời. Tuy vậy, người ta cũng sắm cho tín ngưỡng này một số bản lý lịch mới, bằng cách tạo ra câu chuyện về vị hoàng hậu nhà Tống trôi dạt từ Quảng Châu hoặc câu chuyện thánh nữ Liễu Hạnh đậm màu sắc Đạo giáo. Chi tiết trôi dạt không phù hợp vì không gian quá xa. Cả hai chi tiết đều không phù hợp về mặt thời gian vì quá gần. Có thể cho rằng các triều đình Đại Việt đã làm các bản lý lịch mới, chụp lên đó các yếu tố phương bắc.

Hình thức kết hợp tiền Phật hậu Thánh ở rất nhiều ngôi chùa, một hình thức kết hợp độc nhất ở Việt Nam. Một số tác giả, như Đặng Văn Lung, đã giải thích rằng trước tiên đó là nơi người bản địa thờ thánh thần, rồi các nhà nước ủng hộ Phật giáo đã dành mặt trước cho tôn giáo này, đẩy thánh ra phía sau. Cách giải thích này là có căn cứ, và có lẽ không còn cách giải thích nào khác cho hợp lý.

 

2. Thử lý giải tại sao có sự đồng điệu giữa sử Trung Quốc và sử Việt

Có thể thấy rằng chậm nhất là từ thời Trần đã có chủ trương của nước cầm quyền lấy lịch sử của vùng Lĩnh Nam để gán thành lịch sử bản địa, bằng cách lợi dụng những chứng cứ giả trong sử sách Trung Quốc, rồi bổ khuyết và phát triển thêm.

Với các triều đình Trung Quốc thì không khó để chỉ ra mục đích của họ là củng cố chứng cứ lịch sử, như một phương tiện để ràng buộc người Việt về nhiều mặt, thế nhưng đối với các triều đình Đại Việt thì chắc chắn không phải vì lý do đó. Vậy thì tại sao?

Chúng ta hãy xem xét vài chi tiết trong Đại Việt sử ký toàn thư, phần dịch là của Ngô Đức Thọ:

Đoạn thứ nhất, chép về đền thờ Trưng Vương:

土 人 哀 慕 徵 女 王 立 祠 奉 事 之 祠 在 福 祿 縣 喝 江 社 番 禺 舊 地 城 亦 有 之 . (kỷ thuộc Đông Hán, tờ 3b)
Tức là: Thổ nhân ai mộ Trưng Nữ Vương lập từ phụng sự chi [Từ tại Phúc Lộc huyện, Hát Giang xã, Phiên Ngung cựu địa thành diệc hữu chi]. Tức là: Người địa phương thương mến Trưng Nữ Vương, làm đền thờ phụng (đền ở xã Hát Giang, huyện Phúc Lộc, ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có)”

Đoạn thứ hai, chép về nguốn gốc nhà Trần:

初 帝 之 先 世 閩 人 或 曰 桂 林 人 有 名 京 者 求 居 天 長 即 墨 鄕 生 翕 翕 生 李 李 生 承 世 以 漁 為 業 (kỷ nhà Trần – Thái Tông hoàng đế, tờ 1a)

Tức là: “Sơ, Đế chi tiên thế Mân nhân [hoặc viết Quế Lâm nhân,] hữu danh Kinh giả cầu cư Thiên Trường, Tức Mặc hương sinh Hấp, Hấp sinh Lí, Lí sinh Thừa, thế dĩ ngư vi nghiệp”. Tức là: “Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá”.

Việc xác nhận Phiên Ngung là đất cũ, cùng với việc gộp cả đất sở tại vào Lĩnh Nam từ thời Tần Hán, nhận Triệu Đà làm vua, cả cái tên là Việt cũng lấy từ Lĩnh Nam, cho thấy rất có thể đã có một nhận thức phổ biến trong tầng lớp thống trị ở Đại Việt, rằng quê quán của họ ở Lĩnh Nam. Họ lấy lịch sử Lĩnh Nam đè lên lịch sử trên miền đất vốn thật ra là Lâm Ấp. Thuyết nhà Trần ở Quế Lâm có thể là sự thật, mà cũng có thể người ta tạo dựng để chứng tỏ nguồn gốc Lĩnh Nam chứ không phải bên ngoài.

3. Sự đồng điệu ngày nay

Ngày nay mặc dù xã hội đã có nhiều phương tiện và chứng cứ cho thấy sử xưa chép sai. Những trí thức người Choang, tức là người Lạc Việt, đã từng bước khôi phục lại đúng lịch sử của họ, một cách không thể bác bỏ. Thế nhưng trên phương diện chính thức thì sử sách hai nước Trung Việt vẫn không thay đổi cách nhìn nhận.

Với một số vướng mắc mà ngày càng lộ rõ,để phù hợp thì người ta đã phải giải thích lại, như là giải pháp vá lỗi, một cách chính thức hay bán chính thức.

Giao Chỉ/Giao Châu vẫn được coi là ở Bắc Bộ Việt Nam, đi xuống phía nam là Ái Châu, Hoan Châu. Phía Hoan Châu được vẽ rộng ra để giải thích cho việc khu vực này có đô đốc phủ và có 8 châu.

Vị trí của châu Đường Lâm, cũng có tên là châu Phúc Lộc, quê hương của Phùng Hưng và Ngô Quyền vốn trước đây được gắn với Đường Lâm Sơn Tây thì nay đang có những nỗ lực giải bỏ để đặt vào phía nam Hà Tĩnh, để cho hợp lý với những ghi chép trong sử Trung Quốc xưa, Đường Lâm ở phía nam Hoan Châu. Cổng thông tin điện tử huyện Kỳ Anh – Hà Tĩnh chép: Vùng Kỳ Anh lần lượt thuộc Đức Châu, Hoan Châu, Nhật Nam, Nam Đức, rồi lại Đức Châu, Hoan Châu, Phúc Lộc [31]

Không thể có khoa học lịch sử đúng nghĩa, với cách làm này.

Chú thích:

  1. Theo chú thích của Đào Duy Anh, ghi nguồn là Cựu Đường thư q.41, Địa lý chí. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ thuộc Tùy Đường, Cao Huy Du dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng
  2. https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0nh_ch%C3%ADnh_Vi%E1%BB%87t_Nam_th%E1%BB%9Di_B%E1%BA%AFc_thu%E1%BB%99c_l%E1%BA%A7n_3.
  3. Cựu Đường thư q41, Địa lýTân Đương thư q43 thượng, Địa lý chí – Theo Đào Duy Anh trong Đại Việt sử ký toàn thư, sđd.
  4. Đặng Xuân Bảng, Sử học bị khảo q3 – Địa lý khảo (hạ), bản dịch của Đỗ Mộng Khương, Viện sử học – Nhà xuát bản Văn hóa thông tin, 1997, tr295
  5. Đặng Xuân Bảng, Sử học bị khảo q3 – Địa lý khảo (hạ), sđd, tr311
  6. Lư Vĩ An, Bộ máy An Nam đô hộ phủ thời Đường, trang 29 https://www.academia.edu/37146716/B%E1%BB%99_m%C3%A1y_An_Nam_%C4%90%C3%B4_h%E1%BB%99_ph%E1%BB%A7_c%E1%BB%A7a_Trung_Qu%E1%BB%91c_th%E1%BB%9Di_%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_679_905_Kh%C3%B3a_lu%E1%BA%ADn_T%E1%BB%91t_nghi%E1%BB%87p_C%E1%BB%AD_nh%C3%A2n_2014
  7. Nguyễn Văn Siêu, Phương Đình dư địa chí, bản dịch của Đỗ Mạnh Nghinh, Nxb Văn hóa thông tin, 2001, tr101
  8.  Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tiền biên – quyển thứ 5, bản dịch của Viện sử học Việt Nam, Nxb Giáo Dục, 2007, tr198
  9. https://nghiencuuquocte.org/2019/03/28/khuc-tien-chua-nhan-thoi-co-gianh-doc-lap/
  10.  Lê Quý Đôn, Vân Đài loại ngữ – Khu vũ – điều 65, bản dịch của Trần Văn Giáp, Nxb Văn hóa thông tin, 2006, tr149
  11. Đặng Xuân Bảng, Sử học bị khảo q3 – Địa lý khảo (hạ), sđd, tr342
  12. Nguyễn Văn Siêu, Phương Đình dư địa chí, sđd, tr83
  13. Nguyễn Văn Siêu, Phương Đình dư địa chí, sđd, tr82
  14. Theo chú thích của Đào Duy Anh, ghi nguồn là Nguyên Hòa quận huyện chí q38. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ thuộc Tùy Đường, sđd
  15. Đặng Xuân Bảng, Sử học bị khảo q3 – Địa lý khảo (hạ), sđd, tr359
  16. Đặng Xuân Bảng, Sử học bị khảo q3 – Địa lý khảo (hạ), sđd, tr325
  17.  https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%ADu_Ch%C3%A2n
  18. Thủy kinh chú sớ – q36, bản dịch Nguyễn Bá Mão, Nxb Thuận Hóa & TTVHNN Đông Tây, xb2005, tr369
  19.  Đặng Xuân Bảng, Sử học bị khảo q3 – Địa lý khảo (hạ), sđd, tr293
  20.  Nguyễn Văn Siêu, Phương Đình dư địa chí, sđd, tr38
  21.  Lê Quý Đôn, Vân Đài loại ngữ – Khu vũ – điều 62, sđd, tr148
  22.  Thủy kinh chú sớ – q37, sđd, tr429
  23.  Thủy kinh chú sớ – q36, sđd, tr360
  24. Thủy kinh chú sớ – q36, sđd, tr377
  25.  Hà Văn Thùy, Khảo về Bách Việt,    http://thuyhavan.blogspot.com/2016/03/khao-ve-bach-viet.html
  26. Lê Quý Đôn, Vân Đài loại ngữ – Khu vũ – điều 52, sđd, tr139,140
  27.  Tân Đường thư –  q224hạ – Cao Biền truyện. Xem An Nam truyện, Châu Hải Đường dịch, Nxb Hội nhà văn, xb2018, tr225
  28.  Lê Tắc, An Nam chí lược – q9, bản dịch của Viện đại học Huế, Nxb Lao Động & TTVHNN Đông Tây, xb 2009, trang 190 đến 193
  29.  Lê Quý Đôn, Bắc sứ thông lục, Nguyễn Thị Tuyết dịch chú, Nxb Đại học sư phạm, 2018, trang 238, 239
  30.  Việt sử lược, Trần Quốc Vượng dịch chú, Nxb Hồng Đức, 2018, trang 39,40
  31.  Lê Tắc, An Nam chí lược – q4, sđd, tr113
  32. http://kyanh.hatinh.gov.vn/kyanh/portal/folder/su-phan-chia-dia-gioi-va-ten-goi-qua-cac-thoi-ky