Hai chữ “xán lạn” nghe rất êm tai nhưng thấy không dính dáng gì đến chữ “sáng”, mà lại cũng có nghĩa là sáng sủa, rực rỡ, v.v.. Vậy nó có nguồn gốc từ đâu? Hoàn toàn là từ Việt hay từ Hán Việt?

Xán lạn là một từ Hán Việt ghi bằng hai chữ Hán 燦爛 .Chữ trước thường được đọc là xán (kể cả trong các từ điển Hán-Việt như của Đào Duy Anh, Thiều Chửu, Nguyễn Quốc Hùng, v.v.) nhưng âm Hán Việt chính thống hiện đại của nó lại là thán vì thiết âm của nó là “thứ án thiết”, với phụ âm đầu là th. Còn thiết âm của chữ sau là “lặc ngạn thiết”, vì vậy nên nó mới được đọc là lạn.  Âm cuối của cả hai, như đã thấy, đều là n chứ không phải ng, vì vậy nên Nguyễn Quốc Hùng mới nhận xét trong Hán Việt tân từ điển rằng “ta thường nói sáng lạng là lầm”. Xán có nghĩa là sáng, đẹp, chói, tinh khiết. Nó có một song lập thể (doublet) là xắn – mà nhiều người vẫn thích xem là một yếu tố láy hoặc yếu tố vô nghĩa – vẫn còn tồn tại trong từ ghép đẳng lập xinh xắn. Còn lạn cũng có nghĩa là sáng, bóng, láng, lấp lánh. Và cũng có một song lập thể là lặn còn thấy được ở các từ ghép đẳng lập lành lặnliền lặn (từ cái nghĩa “láng, bóng” của lạn, ở đáy lặn có nghĩa rộng là không thô, không nháp, không nhám). Vậy trong từ vựng của tiếng Việt thì xán lạn là một từ Hán Việt có nghĩa là sáng sủa, rực rỡ, đúng như bạn đã nếu.

Còn sáng cũng là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 爽, âm Hán Việt là sảng, cũng có nghĩa là sáng (Đây cũng là chữ sảng trong mê sảng vì nó còn có nghĩa là nhầm lẫn nữa). Sáng cũng đi chung với láng, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 朗, âm Hán Việt là lãng, có nghĩa là sáng, rõ, trong, để làm thành từ ghép đẳng lập sáng láng, vẫn thông dụng trong phương ngữ Nam Bộ và đã được ghi nhận trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức cũng như trong Từ điển từ láy tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên (Hà Nội, 1994).