Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Phạm Đình Chương – Tác giả của “Người Đi Qua Đời Tôi” và “Nửa Hồn Thương Đau”

Phạm Đình Chương là nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc Việt từ sau năm 1950. Ngoài vai trò là một nhạc sĩ nổi tiếng của miền Nam trước năm 1975, ông còn là một ca sĩ của ban hợp ca Thăng Long với nghệ danh là Hoài Bắc.

Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc, cả hai thân sinh ra ông đều chơi nhạc cổ truyền. Thân phụ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được 2 người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long.


Phạm Đình Chương – Thái Thanh – Phạm Đình Viêm

Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh.
Ông được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV.


Ban Thăng Long hát ca khúc Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng

Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác vào năm 1947, khi 18 tuổi, với tác phẩm đầu tay là ca khúc Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng. Năm 1951 ông và gia đình chuyển vào miền Nam. Ông cùng với các anh chị em là Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng thành lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Trong thập niên 50, ông đã viết những tác phẩm để đời như Ly Rượu Mừng, Xuân Tha Hương, Thuở Ban Đầu, Tiếng Dân Chài... Đáng kể nhất là trường ca bất hủ Hội Trùng Dương mà ông viết về đất nước Việt Nam hoa gấm qua ba bài ca nói về con sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long. Theo như lời ông đã nói với gia đình, trường ca này đã phải tốn mất 4 năm để hoàn tất.

Một sáng tác lãng mạn và để đời thứ hai trong thập niên 1950 đã gắn liền vào tên tuổi Phạm Đình Chương, đó là ca khúc bất hủ phổ thơ Đinh Hùng nhan đề Mộng Dưới Hoa. Riêng nói về Mộng Dưới Hoa, ca khúc này đã theo năm tháng để trở thành một trong những bài tình ca được ưa chuộng và hát nhiều nhất của nhạc Việt.

Nhạc sĩ Vũ Thành đã viết về ca khúc này như sau: ”Tác phẩm thành công nhất của Phạm Đình Chương, theo tôi, là Mộng Dưới Hoa, thơ Đinh Hùng phổ nhạc. Nét đặc thù của tác phẩm này là hơi nhạc tuy rất Việt Nam, mà lại được viết theo âm giai tây phương, chứ không cần đến ngũ cung như hầu hết các sáng tác có âm hưởng thuần túy Việt Nam khác. Ngoài ra, Mộng Dưới Hoa còn đặc biệt ở điểm rất cân đối và được cấu tạo như cung cách một bản nhạc “mẫu” trong các sách giáo khoa về sáng tác. Mộng Dưới Hoa còn đáng được coi là một kỳ công vì phổ nhạc vào thơ Việt Nam là một việc cực khó. Người phổ nhạc chẳng những phải lệ thuộc vào số chữ mà còn phải lựa cung bậc cho đúng luật bằng trắc của bài thơ, không như trường hợp phổ nhạc thơ Pháp hay thơ Anh, chỉ cần theo đúng số chữ mà thôi. Vì vậy, thường thường các bài thơ Việt Nam được phổ nhạc đều viết theo thể tự do, không gò bó, thì mới theo sát được âm bằng trắc của từng chữ. Làm theo thể mẫu hết sức cân đối mà vẫn giữ đúng được bằng trắc của từng chữ, ta phải ngả nón trước Phạm Đình Chương.”

Sáng tác của nhạc sĩ Phạm Đình Chương trong thời gian tiếp theo (khoảng thập niên 1960-1970) có thể không nhiều bằng các nhạc sĩ miền Nam khác, nhưng hầu như đều nổi tiếng và được yêu thích trong nhiều năm qua, như Xóm Đêm, Đón Xuân, Đêm Cuối Cùng, Anh Đi Chiến Dịch… Đặc biệt là ông đã sáng tác một loạt ca khúc phổ thơ rất thành công như Nửa Hồn Thương Đau, Ngợi Ca Tình Yêu Đêm Màu Hồng (thơ Thanh Tâm Tuyền), Khi Cuộc Tình Đã Chết (thơ Du Tử Lê), Người Đi Qua Đời Tôi (thơ Trần Dạ Từ) và nổi bật nhất là ca khúc Đôi Mắt Người Sơn Tây (thơ Quang Dũng). Từ đó, Phạm Đình Chương thường được cho là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Giai đoạn này cũng là lúc ông lập ra phòng trà tên gọi Đêm Màu Hồng, và với ban hợp ca Thăng Long, ông đã biến nơi này thành chỗ hội tụ của các văn nghệ sĩ đương thời.

Sau năm 1975, Phạm Đình Chương sang định cư tại California, Hoa Kỳ vào năm 1979. Tại đây, ông đã viết một số ca khúc cuối cùng, gồm những tác phẩm phổ thơ như Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn, Quê Hương Là Người Đó, Khi Tôi Chết, Hãy Đem Tôi Ra Biển (phổ thơ Du Tử Lê), Hạt Bụi Nào Bay Qua (Thái Tú Hạp)…

Mặc dù toàn bộ các sáng tác của nhạc sĩ Phạm Đình Chương đều được sáng tác sau năm 1945, nhưng nhiều người vẫn gọi nhạc của ông là “nhạc tiền chiến”, có lẽ là vì những ca khúc như Mộng Dưới Hoa, Nửa Hồn Thương Đau, Thuở Ban Đầu… đều có giai điệu mượt mà, ca từ lãng mạn đúng như tính chất thường thấy của dòng nhạc tiền chiến, vốn là tên gọi của những ca khúc sáng tác trong thập niên 1930-1940.

Ngoài tài sáng tác, nhạc sĩ Phạm Đình Chương còn là một ca sĩ thượng thặng với cái tên Hoài Bắc mà có thể nhiều người không biết đến. Ca sĩ Quỳnh Giao đã nhận xét tiếng hát của ông như sau:

“Hoài Bắc là một trong những giọng nam điêu luyện và xuất sắc của nhạc Việt trong hạ bán thế kỷ XX, từ những năm 1950 đến 1975 và sau đó nữa. Tiếng hát Hoài Bắc đậm đặc chất giang hồ, của men rượu hòa trong khói thuốc. Nhưng có lẽ Phạm Ðình Chương đã hy sinh tiếng hát ấy cho sự lẫy lừng của ban Thăng Long, mà ông là linh hồn, là con chim đầu đàn và tay hòa âm tuyệt vời.

Phòng trà Sài Gòn trước 1975 đã chẳng có nét văn nghệ rất phong lưu nếu không có tiếng hát và cây đàn Hoài Bắc cùng ly rượu và tiếng nhạc Phạm Ðình Chương. Sài Gòn ngày nay thì chưa biết đã vội quên, thật đáng tiếc cho thính giả”.

Đại gia đình Thăng Long: hàng trên: Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Hoài Trung, hàng dưới: Thái Hằng, Khánh Ngọc, Thái Thanh

Về đời tư của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, có một sự việc luôn được người ta nhắc đến và bàn tán từ những năm 1960 đến nay, đó là cuộc hôn nhân buồn với ca sĩ – diễn viên tài danh Khánh Ngọc. Họ chia tay nhau vào năm 1960 sau vụ ngoại tình đầy tai tiếng của Khánh Ngọc, để lại vết thương lòng không thể nào nguôi ngoai cho người nhạc sĩ này, thể hiện qua những ca khúc đầy bi thương mà ông sáng tác trong thập niên 1960, điển hình là Người Đi Qua Đời Tôi, Khi Cuộc Tình Đã Chết Nửa Hồn Thương Đau.

Có một sự nhầm lẫn là nhiều câu chuyện đã kể rằng Phạm Đình Chương sáng tác ca khúc bất hủ Nửa Hồn Thương Đau ngay thời điểm chia tay Khánh Ngọc. Tuy nhiên sự thực là 2 sự việc đó cách nhau đến 10 năm. Chia tay vợ năm 1960, đến năm 1970, ông mới hoàn thành bản nhạc Nửa Hồn Thương Đau để dùng trong phim Chân Trời Tím (diễn viên chính là Hùng Cường và Kim Vui).

Phạm Đình Chương và Khánh Ngọc

Vào mùa hè năm 1991, Phạm Đình Chương lâm bệnh và mất đi vào ngày 22 tháng 8 năm 1991 tại California. Theo như gia đình ông kể lại, sau khi người anh của ông là nghệ sĩ lão thành Hoài Trung qua đời tám năm sau đó, vào năm 1998, vào một buổi sáng nắng ấm tại miền nam Cali, gia đình ông đã đem cốt của hai ông và rải ngoài biển, như trong một ca khúc ông viết trong thời gian cuối cùng, nhan đề “Khi Tôi Chết, Hãy Đem Tôi Ra Biển”, phổ từ thơ thi sĩ Du Tử Lê.

Công trình kiến trúc đầu tiên của người Việt ở Sài Gòn

Hiện nay tại Sài Gòn còn rất nhiều tòa nhà cổ do người Pháp xây dựng, tuy nhiên ít ai biết rằng từng đã có một công trình do người...

Triều Nguyễn có đặt ra lệ “Bất Lập Trạng Nguyên” không?

Trong mục “Chuyện Đông, Chuyện Tây” đăng trên tạp chí Kiến thức Ngày nay số 260 phát hành ngày 10/10/1997, ông Trịnh Hồng Lĩnh sau khi đọc một số sách báo đã...

Nghi án lấy vua Gia Long và đầu độc hoàng đế Quang Trung của công chúa Lê Ngọc Hân

Cuộc đời của Ngọc Hân tài sắc từ lúc còn là công chúa đất Thăng Long đến khi làm Bắc cung Hoàng hậu Phú Xuân không hề bình lặng. Khi...

Thích khách thời Đông Chu: Những màn ám sát lưu danh sử sách (Phần II)

Trong phần trước chúng ta đã nhắc đến Chuyên Chư, Yêu Ly và Tào Mạt, họ đều là những thích khách uy dũng, trí có, dũng có. Trong phần II,...

Sơ lược về lịch sử các dòng họ ở Việt Nam

Hiện nay chưa có số liệu thống kê chính xác các dòng họ ở Việt Nam. Theo tài liệu của người Pháp – Pierre Gourou (1930) – thì ở Việt...

Phạm Ngũ Lão – Tướng quân đan sọt

Những thứ tước được trong khi đánh giặc đều sung vào kho tàng trong quân, coi tiền của thoảng như không. Phạm Ngũ Lão thực là bậc danh tướng lúc...

Vài nét về giáo dục xưa và nay

Thông thường xưa nay, cha mẹ nào cũng mong con mình được trưởng thành trở nên người có tài có đức. Chúng ta đã đem lại những sinh mệnh trên...

Nghiên cứu tiếng Việt trước Pháp thuộc

Tình hình nghiên cứu tiếng Việt, cụ thể là làm từ điển Việt ngữ trước Pháp thuộc, tức là trước nửa sau thế kỷ 19, như thế nào khi chữ...

Nghề thêu của người Việt

Thuở còn đi học, tôi rất thích câu hát ru của mẹ: “Một mai ai chớ bỏ ai/Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim ”. Đó là câu hát...

Ai cưỡi voi, nằm giường đồng?

Ngày xưa thi đỗ tiến sĩ… sướng lắm! Được vua biết mặt chúa biết tên. Được cả làng, cả tổng đón rước về tận nhà. Chữ nghĩa gọi là rước...

Phan Khôi và cuộc thi quốc sử của báo Thần Chung, Sài Gòn 1929

Đề tài nêu trong bài này là một phần việc mà tôi đã tạm gác lại khi biên soạn để công bố sưu tập Phan Khôi – Tác phẩm đăng...

Vận ngữ với thơ (Nói về tập Nhàn Ngâm của ông Tùng Thành Nguyễn Nhún)

Dạo tháng giêng năm nay, một hôm, tôi có tiếp được một cuốn sách của người ta gởi tặng, do nhà dây thép Huế giao cho. Sự ấy với tôi...

Exit mobile version