Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

“Phạt cười“ – Cách tra tấn đáng sợ và gây đau đớn thời cổ đại

Thời cổ đại, người ta thường dùng hình phạt để cai trị đất nước bởi họ cho rằng những thương tổn không thể kháng cự được là điều đáng sợ nhất. Hơn nữa, phần lớn bách tính đều không được ăn học đầy đủ, lý trí yếu nên họ sẽ không làm những việc mà pháp luật quy định người phạm tội phải chịu cực hình.

Những hình phạt được phát minh ra giống như 1 “bộ môn nghệ thuật”, để đạt được những mục tiêu khác nhau thì họ sẽ sử dụng những hình thức khác nhau. Ở thời kì Minh triều do Chu Nguyên Chương trị vì thì những hình phạt dã man như lột da, cho kiến bò lên người… đã ra đời để tra tấn các tham quan.

Cái gọi là hình phạt chốn cung đình, ngay từ đầu là nhằm vào nam giới, chủ yếu là thái giám, dần dần mới được áp dụng với cả phụ nữ.

“Phạt cười” nghe qua có vẻ rất hài hước, nhưng trên thực tế, đây là một phương thức tra tấn không cần dùng đến bất cứ vũ khí nào, cũng không đổ máu nhưng lại dày vò phạm nhân cho đến tận lúc chết.

Nguồn gốc hình thức tra tấn bằng việc gây cười

“Phạt cười” hay còn được gọi là Tickle torture (tra tấn bằng cách gây nhột) hoặc “Tiếu hình” trong tiếng Trung Quốc. Đây là một hình thức tra tấn cổ xưa, xuất hiện sớm nhất vào thời nhà Hán ở Trung Quốc. “Phạt cười” là hình phạt dành riêng cho quý tộc vì nó không để lại dấu vết, khiến nhưng người thực hiện có thể che giấu việc đã tra tấn nạn nhân.

Một ví dụ khác về việc “phạt cười” đã được sử dụng ở La Mã cổ đại, nơi chân của phạm nhân bị nhúng vào dung dịch muối, mật ong, hoặc đường trắng và người ta sẽ đưa một con dê đến liếm lòng bàn chân họ. Kiểu tra tấn này ban đầu sẽ chỉ như mọi người cù lét nhau để trêu đùa như bình thường, nhưng cuối cùng sẽ khiến phạm nhân trở nên vô cùng đau khổ.


Tranh vẽ miêu tả về hình thức tra tấn tưởng như rất nhẹ nhàng này.

Có rất nhiều phương thức khác để thực hiện “phạt cười” như: Dùng lông ngỗng cù lòng bàn chân hoặc nách, những vị trí có thể gây cười trên cơ thể con người. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, một người đàn ông bị bức hại trong trại tập trung Flossenburg đã kể lại việc chứng kiến một tù nhân bị tra tấn bằng cách gây cười cho đến chết. Sự việc này đã được mô tả lại trong The Men With The Pink Triangle của Heinz Heger: “Họ dùng lông ngỗng để cù vào lòng bàn chân, giữa hai chân, ở giữa các nách và nhiều bộ phận khác trên cơ thể tù nhân. Lúc đầu, người đó sẽ cố gắng buộc bản thân phải giữ im lặng, trong khi mắt anh ta co giật vì sợ hãi và dằn vặt. Sau đó, anh ta không thể kiềm chế bản thân được nữa và cuối cùng đã cười phá lên, rồi rất nhanh chóng, tiếng cười đó biến thành một tiếng kêu đau đớn”.

Tại sao hình phạt này lại đáng sợ?

Trong cuốn sách Sibling Abuse, Vernon Wiehe đã công bố kết quả nghiên cứu của mình về 150 người lớn bị anh chị em của họ lạm dụng trong thời thơ ấu. Một số đó cho biết cù lét (gây nhột) là một loại lạm dụng thể chất phổ biến mà họ từng phải trải qua. Và dựa trên các báo cáo này cũng đã tiết lộ rằng cù lét có khả năng gây ra các phản ứng sinh lý cực đoan ở nạn nhân, như nôn mửa, mất kiểm soát (mất kiểm soát bàng quang) và mất ý thức do không có khả năng thở.

Theo phân tích, nếu một người liên tục cười không ngừng, không khí trong phổi sẽ ngày càng ít đi và họ sẽ bị mất khả năng thở. Kết quả là cơ thể sẽ vô cùng thiếu oxy và gây ra nghẹt thở đến chết. Hầu hết những hình phạt thời cổ đại được thực hiện trong thời gian rất lâu. Do đó, tù nhân sẽ không thể ngừng cười, dẫn đến kết cục bi thảm cuối cùng là họ sẽ chết trong chính những cơn cười không dứt đó của mình.

Cho đến ngày nay, người ta vẫn thường nói đùa với nhau là “cười đến không thở nổi”, nhưng trên thực tế đó chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết cho rất nhiều người trong thời Trung Cổ hay phong kiến Trung Quốc xưa kia. Bên cạnh những hình thức tra tấn như: Lăng trì, ngũ mã phanh thây… “Phạt cười” vẫn luôn là hình phạt gây ra nỗi sợ hãi còn kinh khủng hơn các hình phạt đẫm máu. Hình ảnh một người bị trói, cố định hoàn toàn tay chân, nhưng vẫn cười mãi cho đến khi không thể chịu đựng được nữa và chết đi, chắc chắn sẽ để lại sự ám ảnh sâu sắc cho những ai chứng kiến.

Ta hay nghe người ta nói SÂM BỔ LƯỢNG , SÂM DỨA, NƯỚC SÂM … Vậy chữ Sâm đây có nghĩa là gì?

Trước hết phải nói tới Sâm Bổ Lượng…hay còn gọi là chè sâm bổ lượng, là một món chè ngọt Việt Nam nhưng có nguồn gốc Quảng Đông và cũng...

Con Nghê – Linh vật thuần tính Việt

Hai linh vật đặc thù của văn hóa Việt Nam là chim Hạc và con Nghê, thế nhưng trong khoảng hai trăm năm gần đây, ta thường thấy rồng và...

Một quân công của Nguyễn Công Trứ

Sự tảo thanh giặc Tàu ( vào năm Mậu Tuất (1838) và năm Kỷ Hợi (1839) Vào năm Mậu Tuất (1838) tức là năm thứ mười chín triều vua Minh...

Tống Thị Quyên – Một Bi Kịch Chốn Vương Triều Nhà Nguyễn

I - Mở đầu bi kịch Nguyễn Phúc Cảnh (NPC), 4 tuổi phải rời mẹ cha, rời quê hương, theo Giám mục Bá-đa-lộc sang Pháp. Rồi Cảnh ăn ở chung...

Tản mạn về cà phê Sài Gòn xưa

Còn một chiêu nữa là họ múc và cân cà phê trước mặt người mua nhưng đem vô máy xay ở phía trong khuất tầm mắt thì có trời mới...

8 công trình đầu tiên của Sài Gòn xưa

Khách sạn Continental, nhà hát Thành phố, Bệnh viện Chợ Quán, Bưu điện trung tâm... là những công trình đầu tiên được xây tại vùng đất Sài Gòn Gia Định...

Đặt gạch có nghĩa là gì?

Từ “đặt gạch” từ này bắt nguồn từ thời bao cấp, người Việt Nam phải xếp hàng chờ cấp phát nhu yếu phẩm theo tem phiếu. Khi cần đi đâu...

Chúa Tiên với cuộc Nam tiến

Mùa đông năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được cử vào trấn thủ Thuận Hóa, sự kiện này tạo tiền đề cho công cuộc mở đất phương nam thời chúa...

Sài Gòn Tạp Pín Lù – Cháo cá Chợ Cũ

Người nào, năm nay 1985, khi đi đường Võ Di Nguy, trước khỉ quẹo qua đường ở bên hông Nha Ngân khố ngày xưa, chưa tới bốn năm căn gì...

Xà bông Cô Ba đánh bay hàng ngoại

Ngày nay, nhìn hộp xà bông Cô Ba trơ trọi trong vài siêu thị giữa bối cảnh thị trường chất tẩy rửa bị doanh nghiệp nước ngoài thôn tính gần...

Truyền thuyết con Ma Vú Dài trước 75

Đọc lại giai thoại và truyền thuyết con Ma Vú Dài trước 75 cho ai thích tò mò . [caption id="attachment_246174" align="alignnone" width="284"] “Con ma vú dài” trong khám Chí...

Vùng Lĩnh Nam lập quốc từ thời Đường Ngu

Đường Ngu tức là vua Nghiêu họ Đào Đường ( 2337 TCN–2258 TCN) và vua Thuấn họ Hữu Ngu. Tam Đại tức 3 đời Hạ (bắt đầu từ vua Vũ),...

Exit mobile version