Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Lại chuyện “gác mái” trong câu thơ “Gác mái ngư ông về viễn phố”

Trả lời câu hỏi “Gác mái lúc nào?”, trên Kiến thức ngày nay, số 214, ông có khẳng định rằng: “Trong thực tế, chẳng làm gì có chuyện gác mái ngư ông về viễn phố”, mặc dù Bà Huyện Thanh Quan viết như thế nhưng ta phải hiểu rằng ngư ông về đến bến xa rồi mới gác mái chèo bên mạn thuyền mà đi về (hoặc vào) nhà. Điều mà ông nói thì thực tế là không có vì dân đi ghe, khi về đến bến nhà rồi thì cột ghe lại, gỡ mái chèo ra khỏi cọc chèo, gỡ cọc chèo để vào ghe còn mái chèo thì đem lên nhà cất chứ không ai gác mái chèo vào mạn thuyền rồi đi về (hoặc vào) nhà. Nếu gác mái chèo vào mạn thuyền thì tay chèo sẽ đưa ra ngoài, khi gió thổi chiếc ghe lắc qua lắc lại hoặc khi nước lớn nước ròng thì ghe lên xuống tay chèo dễ bị vướng vào vật gì đó làm gãy tay chèo hoặc làm chìm ghe. Vậy chỉ còn lại việc gác mái trước hoặc đồng thời với việc về viễn phố. Đến đây, tôi xin thưa về việc gác mái.

1. Gác mái chèo lên mạn thuyền;

2. Gác mái chèo vào cọc chèo để chèo ghe.

Muốn gác mái chèo vào cọc chèo, người ta dùng sợi dây quấn lại thành vòng tròn, tròng vòng tròn vào mái chèo, xoắn vòng tròn lại như hình số 8, tức hai vòng tròn, một ôm lấy mái chèo, một tròng vào cọc chèo. Còn trong lúc thâu lưới hay dây câu, mái chèo được để trong lòng ghe cho gon. Khi thâu xong lưới hay dây câu, ngư ông mới gác mái chèo vào cọc chèo rồi chèo ghe về viễn phố. Vậy đã rõ ngư ông gác mái trước khi về viễn phố và chuyện “gác mái ngư ông về viễn phổ” là chuyện có thật.

Người ta vẫn hiểu “gác mái” chỉ là ngừng chèo chứ không hiểu đó là tròng mái chèo vào cọc chèo mà khởi sự chèo như ông đã diễn tả. Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh- Tịnh Paulus Của ghi: “Gác mái chèo. Cất chèo, xếp chèo”. Dictionnaire annamite-français của J. F. M Génibrel ghi: “Gác mái (Phơi mái). Cesser de ramer; Déposer les rames” (Ngừng chèo; bỏ chèo xuống). Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức v ghi: “Gác mái. Gác cây chèo xuôi theo be thuyền: Chèo đà gác mái//Ngưng, không chèo nữa: Thuyền ai gác mái lững lờ, Phải duyên thì ghé, đây chờ đã lâu”. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên ghi: “Gác (…) 3. Thu dẹp lại: “Gác mái chèo”. Sở dĩ cách giải thích của ông trái ngược với lời giảng trong các quyển từ điển trên đây, theo chúng tôi, là vì đã có một sự nhầm lẫn về ngữ nghĩa. Động từ gác vừa có nghĩa là kê lên, gác lên, lại vừa có nghĩa là xếp lại, để vào một chỗ nên các tác giả kia, theo lối nói thông dụng và thực tế, đã hiểu “gác” trong “gác mái” theo nghĩa sau còn ông thì lại hiểu theo nghĩa trước. Xin so sánh với động từ “cất” trong lời giảng của Đại Nam quốc âm tự vị (Gác mái chèo: cất chèo, xếp chèo). Ngoài cái nghĩa là để vào một chỗ ổn định, cất còn có nghĩa là nâng lên, đưa lên. Nếu hiểu theo nghĩa này, thì cất chèo tất nhiên sẽ là nâng chèo lên mà chèo, hoàn toàn trái ngược với cái nghĩa mà Huỳnh-Tịnh Paulus Của muốn giảng. Trong vốn từ vựng chung thì các động từ “gác” và “cất” có thể có các nghĩa trái ngược như đã thấy nhưng riêng từ tổ cố định “gác mái”, dù sao cũng là một lối nói chuyên môn trong nghề ghe thuyền, thì không thể có hai cách hiểu trái ngược với nhau được. Vậy khi mà “gác mái” từ lâu đã được người ta hiểu như các từ điển đã giảng thì nó khó lòng có được cái nghĩa mà ông đã nêu. Và khi mà nó có cái nghĩa thông thường như thế thì hẳn là chính Bà Huyện Thanh Quan cũng chỉ có thể hiểu nó theo nghĩa đó mà thôi.

Vậy “gác mái”, theo chúng tôi cũng như theo các quyển từ điển đã nêu, vẫn cứ là đặt mái chèo xuống, nghĩa là dừng chèo, chứ không là gác mái chèo vào cọc chèo mà khởi sự chèo.

Về cách buộc thuyền và gỡ mái chèo ra khỏi cọc chèo mà ông đã diễn tả, chúng tôi thừa nhận rằng đó là một cái nếp thích hợp của một làng chài ven biển. Nhưng ngư ông của Bà Huyện Thanh Quan bất quá chỉ đi câu trên một chiếc thuyền nhỏ thậm chí còn không có cọc chèo nữa: đối với bài thơ đang xét, một chiếc thuyền câu nhỏ sẽ thích hợp hơn là một chiếc thuyền chài và một bến sông khuất nẻo sẽ thích hợp hơn là một làng chài rộn rịp. Vậy cũng không có chuyện tròng mái group di ibig chèo vào cọc chèo hoặc gỡ nó ra khỏi đó.

Cuối cùng, động tác gác mái chèo vào mạn thuyền không nhất thiết làm cho tay chèo phải đưa ra ngoài vì mạn thuyền thì có mặt trong và mặt ngoài. Nếu để áp mái chèo theo mặt trong của mạn thuyền thì tay chèo làm sao đưa ra ngoài được? Và vì ở một bến sông khuất nẻo cho nên liệu ngư ông có cần phải vác mái chèo vào nhà sau khi đã buộc thuyền hay không?

Ải Lang là gì?

Ải: cửa nơi biên giới, lang: chó sói. Ðây nói về phân của con chó sói. Ngày xưa, mỗi khi có giặc người ta thường đốt phân chó sói để...

Lột trần Việt ngữ – Kỳ 17/25 – Trời và Ngày

Bạn Nguyễn Mạnh Côn cho biết rằng người Nhựt chỉ Trời bằng danh từ ngoại quốc mà họ đọc là SORA. Đành thế. Nhưng chúng tôi đâu có đối chiếu...

Tại sao lại nói “nghèo rớt mồng tơi”? Mồng tơi có phải là loại dây leo để nấu canh hay không?

Tại sao lại nói “nghèo rớt mồng tơi”? Vâng, mồng tơi ở đây đúng là một loại dây leo mà người ta dùng để nấu canh, tên khoa học là...

Kỷ niệm về ‘Xóm Đêm’ – Đường về canh thâu

Tôi nhắm mắt lại và lạy Chúa : “Đừng để con nghe bản nhạc này thêm lần nữa” Da diết thâm trầm và khiến lòng đổ lệ, đêm mùa đông...

Chữ “sĩ” trong ngành y ngày nay

Với bác sĩ, y sĩ thì chữ “sĩ” là điều rất quan trọng. Thế nhưng xã hội lại đang phải chứng kiến sự xuống cấp của cái “sĩ” trong ngành...

Trường học Phần Lan – Tấm gương cho giáo dục thế giới

Mọi nơi trong thành phố đều được xem là lớp học. Ở trường, học sinh có thể học bằng cách chơi game khi đang ngồi trên ghế lười hạt xốp....

Minh tinh điện ảnh người Việt đầu tiên tại trời Tây

Ai là diễn viên điện ảnh người Việt đầu tiên? Minh tinh người Việt nào từng thành danh và nổi tiếng khắp nước Pháp đầu thế kỷ 20? Đây là...

Cách cư xử ở đời

Thầy Nhan Uyên, hỏi Đức Khổng Tử: "Hồi nầy muốn nghèo mà cũng được như giàu, hèn mà cũng được như sang, không phải khỏe mà có oai, chơi bời...

Khoa Cử Việt Nam – Phần 1: Thi Hội – Chương sáu: Chấm thi

Phép chấm thi thay đổi tùy thời, nhưng không ngoài mục đích kén chọn người một cách công bằng, thích đáng. Thời Nguyễn, để tránh gian lận tư túi, quyển...

Ảnh quý giá về một số địa phương miền Bắc năm 1900

Phố Hàng Đào ở Hà Nội, thành Bắc Ninh, núi Kỳ Lừa ở Lạng Sơn… là loạt ảnh tư liệu quý giá mà nhiều người chưa từng được xem về...

ĐÀ trong ĐẬM ĐÀ nghĩa là gì?

Mục “Tiếng Việt” trên báo Văn nghệ số 31 (2945), thứ Bảy 30-7-2016, có đăng bài “Đậm đà” của một tác giả ký tên là Từ Nguyên (tr.19). Cho biết...

Đặc trưng ngôn ngữ cư dân Tây Nam Bộ

Cư dân vùng sông nước Tây Nam bộ có hàng nghìn cách nói với những biểu cảm, thái độ thâm thúy khác nhau, tuỳ tình huống. Thành thử khi mới...

Exit mobile version