Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Tìm hiểu về QUA – BẬU trong ngôn ngữ Nam bộ

Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua, hôm nay qua không nói qua qua mà qua qua

Muốn tìm lại dấu vết quê hương phương Nam liên quan tới hai từ này không gì hơn bằng cách tìm trong ca dao hoặc văn của một số văn thi sĩ Nam Kỳ mới có hương vị thực sự của qua, bậu của thời khai phá miền Nam.

Từ qua tuy được dùng xưng hô một cách thân mật nhưng không “thân mật” một cách đa dạng như từ bậu.

Cặp từ xưng hô “qua – bậu” mang đậm sắc thái địa phương. Tuy nhiên, qua khảo sát chúng ta sẽ thấy cặp từ này thể hiện mối quan hệ và tình cảm khá phức tạp. Nếu là vợ chồng thì mối quan hệ ở đây đang có vấn đề:

“Bậu nói với qua, bậu không lang chạ,
Bắt đặng bậu rồi, đành dạ bậu chưa?”

Nếu là tình yêu đôi lứa, mối quan hệ đó vẫn còn xa cách hoặc đang gặp những trắc trở và chủ thể trữ tình thể hiện nỗi nuối tiếc, buồn thương vì duyên nợ không thành:
“Trách mẹ với cha chứ qua không trách bậu,
Cha mẹ ham giàu gả bậu đi xa.”

Bên cạnh đó là hai biến thể “anh (em) – bậu” và “qua – em (anh)”. Những bài ca dao sử dụng hai biến thể xưng hô này thường là những bài ca dao tỏ tình nhưng thiếu tự tin:
“Bậu có chồng chưa, bậu thưa cho thiệt,
Kẻo anh lầm tội nghiệp cho anh”

Hay đau khổ, trách hờn người yêu:
“Trách lòng bậu cứ đẩy đưa,
Gạt anh dãi nắng, dầm mưa nhọc nhằn”

Hoặc thể hiện nỗi da diết, nhớ mong:
“Bướm xa hoa, bướm dật, bướm dờ,
Anh đây xa bậu, đêm chờ ngày trông”

Trong trêu chọc, ghẹo:
“Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng:
Chữ đề tên bậu, không chồng có con.
Bậu đừng lên xuống đèo bồng
Chồng con hay đặng sanh lòng nghi nan.”

Cách xưng hô “qua-bậu” nay rất ít gặp trong giao tiếp, nhất là từ “bậu”.
Riêng từ “qua” hiện nay vẫn thỉnh thoảng còn được dùng trong quan hệ không bằng vai.

“Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua, hôm nay qua không nói qua qua mà qua qua”.

Qua, bậu là đại từ xưng hô của người dân, phương Nam“, hai từ ngữ này đối với người Việt dường như vô nghĩa, đó chỉ là từ ngữ xưng hô thân mật của người dân vùng đất mới.

Gốc của từ “qua” theo Lê Ngọc Trụ là do chữ wá (hay đọc đúng hơn là u_á) đọc theo giọng Triều Châu của chữ”ngã” tức là “tôi”. có lẽ nên chấp nhận lối giải thích giản dị của Lê Ngọc Trụ. Nếu “qua” đã là “tôi” từ âm Triều Châu thì “bậu” cũng rất có thể do âm Triều Châu mà ra. Khi bàn luận với người Triều Châu, thì trong tiếng Triều Châu “pa_u” hay “pấu” (giọng đọc khác nhau tùy vùng) là vợ, một danh từ bình thường và khi ghép vào một chữ nữa mới phân rõ ngôi thứ như “cha pấu”, “cha pa_u” (vợ tôi) “deo pa_u” (vợ yêu) như ta dùng Hán Việt “tệ phụ, tệ nội, hiền phụ, hiền thê …”.

Từ ngữ ghép này chỉ là một danh từ ghép. Người Việt chung sống với người Triều Châu đọc trại là “bậu” và bậu trở thành đại từ ngôi thứ hai.
Qua, Bậu là từ ngữ Triều Châu được việt hóa hoàn toàn, giống như nhiều trường hợp tương tự như từ “va” (nó, hắn, anh đó, thằng cha đó, ông đó) là do giọng Triều Châu “i_a” của từ Hán Việt “tha”, thí dụ “i_a mứng” = tha môn (họ, chúng nó).

Từ một đại từ và một danh từ bình thường, sau một tiến trình hội nhập, “qua”, “bậu” đã trở thành hai đại từ độc đáo của lứa đôi, phưởng phất thi vị với nghĩa súc tích hơn và ngôi thứ dược xác định rành rẽ hơn từ gốc. Hai đại từ này phổ biến giới hạn ở vùng đất Phương Nam, vì ở đây số người Việt và người Hoa thuở ban đầu hầu như tương đương. So với những vùng khác của đất nước, tỉ số người Hoa tại vùng này rất cao.

Khi người Việt quay về với ngôn từ thống nhất, hai đại từ này cùng với một số không ít từ ngữ hội nhập, đã một thời đóng vai trò là nhịp cầu của giai đoạn sơ khai, nhịp cầu nối liền những dân tộc cùng chung sống trong một vùng đất, là phương tiện trong lịch sử giao tiếp hội nhập của Phương Nam, và giờ đã trở thành dĩ vãng.

Sài Gòn, 11/ 01/2016
Hay Sax
Sưu tầm của:
Phan TấnTài
TS. Nguyễn Văn Nở

Tản Ðà – Nguyễn Khắc Hiếu (1888-1939)

Tản Ðà là biệt hiệu (tên ghép của núi Tản và sông Ðà), tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm 1888 lại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh...

Chiếc trống đồng Đông Sơn lớn nhất Việt Nam

Trống đồng Sao Vàng thuộc loại I Heger muộn, có chiều cao 86 cm, đường kính mặt 116 cm. Hệ thống hoa văn trang trí trên trống mang những nét...

Vài dấu vết lịch sử ở vài miền xa khuất

Những dấu vết lịch sử hữu danh thì đã có nhiều tài liệu. Những dấu vết lịch sử ở vài miền xa khuất, tầm vóc không lớn, ít người lưu...

Đường sắt răng cưa Tháp Chàm – Đà Lạt: Nhìn lại một nỗi đau

Sau 1975 tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm – Đà Lạt bị phá. Các đầu máy bán lại cho Thụy Sĩ rẻ như phế liệu và đau đớn thay....

Tư tưởng ‘nam tôn nữ ti’ có hàm nghĩa chân chính là gì?

Nói đến “nam tôn nữ ti”, rất nhiều người cho rằng đây là Khổng Tử có tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, cho rằng thân phận của người nam thì...

Những cuộc đổi họ lớn trong lịch sử

1. Từ họ Lý ra họ Nguyễn Đầu năm 1226 (tháng 12 năm Ất Dậu), Trần Thủ Độ tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên...

Ca Dao, Dân Ca, Kinh Xáng, Cửu Long

Đồng bằng sông Cửu Long, phần đất cuối cùng của tổ quốc, chặng đường chót của cuộc Nam tiến mở rộng cõi bờ, nơi có điều kiện khí hậu thuận...

Chuyện ăn Tết của vua chúa Việt xưa

Qua những tư liệu lịch sử, Tết của vua chúa xưa thường không nặng về hưởng thụ vật chất mà luôn hướng tới lễ nghi và truyền thống văn hóa...

Bánh chưng, bánh giầy là… bánh gì?

Truyện Bánh chưng (ngày nay thường gọi là Bánh chưng, bánh giầy) mà hầu hết người Việt đều biết, được chép trong sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế...

Đòn bánh tét của má

Ngày trước má thường nói, giá mà ba còn sống để gói lấy chiếc bánh tét đầy đặn mà đặt trên bàn thờ ông bà ba ngày tết. Thế nhưng...

Người Việt và câu chuyện giàu kinh tế, nghèo văn hóa

Vẫn biết rằng phát triển kinh tế thì nhanh và dễ hơn phát triển văn hoá nhưng chẳng nhẽ người ta cứ mải làm giàu mà không cần xây dựng...

Chùm ảnh: Khám phá Vườn Bách Thảo – công viên lâu đời nhất Hà Nội

Với tuổi đời hơn 100 năm, Vườn Bách thảo Hà Nội vẫn lưu giữ được những cây cổ thụ rất lớn, đã tồn tại qua nhiều biến cố trong lịch...

Exit mobile version