THỜI NGUYÊN THỦY: GIAI ĐOẠN HÁI-LƯỢM, THUẦN DƯỠNG VÀ TRỒNG LÚA RẪY
(18.000 -5.000 năm)
I. TỔNG QUAN
Lịch sử trồng lúa là một đề tài lớn trong khi thông tin và tài liệu còn nhiều giới hạn. Tuy nhiên, cây lúa là loại lương thực quan trọng của dân tộc Việt Nam ít nhứt từ 3.000 năm qua và của hơn phân nửa dân số thế giới hiện nay. Dân tộc có lịch sử, cây lúa cũng cần có lịch sử để tìm hiểu sự tương quan giữa con người và loại Hòa Thảo này. Trong thời gian qua, những thành tựu ngành khảo cổ học và thư tịch trong và ngoài nước đã giúp rọi sáng phần nào tiến hóa phát triển của nền nông nghiệp và ngành trồng lúa Việt Nam từ thời sơ cổ đến hiện đại; nhưng lãnh vực này còn cần thêm nhiều nghiên cứu sâu rộng, nhứt là công trình khai quật khảo cổ học để sớm có bức tranh rõ nét về lịch sử tiến hóa của ngành này.
Các phát hiện khảo cổ học cho biết quá trình trồng lúa ở Việt Nam đã tiến hóa lâu dài theo trình độ văn minh dân tộc qua nhiều chặng đường phát triển. Từ thời người Vượn cho đến cuối thời đại Đồ Đá Mới khoảng 5.000 năm trước là thời nguyên thủy (hay tiền sử), con người chỉ biết săn bắt, hái lượm và bắt đầu nghề nông nghiệp; nhưng chưa khai hóa tiến bộ như thời đại Kim Khí. Từ nền văn hóa Hòa Bình (10.000-8.000 năm), cuộc Cách Mạng Đá Mới bùng phát khắp nơi, nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện và con người dùng khoai đậu sò ốc để có thêm thức ăn, biết dưỡng trồng hạt lúa hoang dại quanh nơi cư trú hoặc các đầm lầy, rừng núi để có thêm lương thực. Đến thời kỳ văn hóa Bắc Sơn, nhiều băng nhóm trồng lúa rẫy xuất hiện, đánh dấu thay đổi lớn của con người, ảnh hưởng sâu đậm đến văn minh dân tộc Văn Lang sau này, vì nghề trồng lúa mang đến đời sống xã hội ổn định hơn. Sau đó sự xuất hiện các kim loại như đồng, thau, sắt, gang và nghề luyện kim qua các nền văn hóa Phùng nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun đã cung cấp cho nghề nông chủ yếu ngành trồng lúa các công cụ hoạt động hữu hiệu làm tăng sản xuất và cải tiến năng suất đảm bảo lương thực cho dân số ngày càng đông đảo hơn, đặc biệt vào hậu bán thời đại Hùng Vương và An Dương Vương.
Về khảo cổ học, từ lâu các trầm tích hạt lúa, hạt gạo, vỏ trấu, than tro, bào tử phấn hoa, côn trùng, phytoliths… thường được các nhà nghiên cứu dùng đến để đánh giá niên đại và nguồn gốc cây lúa. Nhưng các di tích khảo cổ thường bị chi phối lâu dài bởi các điều kiện khí hậu, môi trường địa phương; cho nên phương cách xác định niên đại của các di vật khảo cổ thường gặp sai lầm không thể tránh được. Khí hậu nóng ẩm của các miền nhiệt đới thường hủy hoại các thực vật, hạt lúa gạo nhanh hơn các vùng có khí hậu ôn đới, ngoại trừ chúng được hóa thạch hoặc dưới hình thái khác như gạo cháy, phytoliths… Hiện tượng biển tiến và biển lùi đã làm cuốn trôi nhiều di tích thực vật cổ ở các vùng đồng bằng trũng thấp ven biển. Dù thế, việc dùng phương pháp đồng vị phóng xạ C14 để xác nhận khung niên đại di vật phát hiện trong các cuộc khai quật hoặc sưu tầm có giá trị tương đối để hiểu biết rõ hơn những nền văn hóa khảo cổ trong thời tiền sử và có sử. Nhờ đó, chúng ta có được một số thông tin đáng tin cậy về tiến hóa ngành nông nghiệp lúa qua nhiều giai đoạn thăng hoa của dân tộc và đất nước.
Để có ý niệm thời gian rõ rệt trong quá trình tiến hóa vạn vật, các giai đoạn sử học và khảo cổ học được sơ lược trình bày trước khi bước vào tìm hiểu lịch sử ngành nông nghiệp lúa cổ sơ qua khảo cổ học Việt Nam và quốc tế.
Các nhà sử học thường phân chia lịch sử loài người làm hai thời kỳ chính: tiền sử và có sử.
Thời tiền sử gồm có 3 thời đại:
- Thời đại Đồ Đá Cũ (hay đá đập): từ khoảng 1.600.000 đến 000 năm trước,
- Thời đại Đồ Đá Mới (hay đá mài): từ khoảng 11.000 đến 000 năm trước,
- Thời đại Kim Khí (thời có sử): bắt đầu khoảng 5.000 năm trước.
Thời có sử gồm có 4 thời đại:
- Thời Thượng Cổ: từ khi có chữ viết (5.000 năm trước) đến thế kỷ V sau Công Nguyên (CN),
- Thời Trung Cổ: từ thế kỷ V đến thế kỷ XV sau CN,
- Thời Cận Đại: từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, và
- Thời Hiện Đại: từ thế kỷ XVIII đến ngày nay.
Theo khảo cổ học, kỷ Thứ 4 còn gọi là kỷ Nhân sinh, là kỷ hình thành phát triển con người và trái đất. Kỷ Thứ 4 có thể dài lâu độ 1,6 triệu năm hoặc hơn và được phân chia làm 2 giai đoạn:
- Cánh Tân (Pleistocene) còn gọi là thời đại Đá Cũ thật dài, và
- Toàn Tân (Holocene) hay thời đại Đá Mới-Kim Loại thật ngắn, khoảng từ 10.000 năm nay.
Riêng thời kỳ Cánh Tân được phân ra là 3 giai đoạn: Cánh Tân sớm Q1, Cánh Tân giữa Q2 và Cánh Tân muộn Q3. Kỷ Thứ Tư được tóm lược với niên đại ước định trong Bảng 1.
Bảng 1: Phân chia giai đoạn kỷ Thứ Tư
Kỷ | Thế | Dưới thế | Niên đại tuyệt đối |
Toàn Tân (Holocene)(Đá Mới: Neolithic, Kim Loại và Hiện Đại) | 10.000 năm BP | ||
KỶ THỨ TƯ | Nhân sinh | Cánh Tân muộn | 125.000 năn BP |
Cánh Tân (Pleistocene)(đá cũ: Palaeolithic) | Cánh Tân giữaCánh Tân sớm | 700.000 năm BP1.600.000 năm BP | |
KỶ THỨ BA | Tân sinh (Pliocene) |
Nguồn: – Viện Khảo Cổ Học, 1998
BP: Before present: trước ngày nay, theo qui ước khảo cổ học trước ngày 1 tháng giêng 1950 vì “ngày nay” luôn bất định.
Thời đại Đá (cũ và mới) là thời kỳ dài nhứt của lịch sử loài người, chỉ chấm dứt cách nay độ 5.000-6.000 năm. Theo các cuộc nghiên cứu cho biết vào thời đại đá Người Vượn (Homo erectus) có nguồn gốc từ châu Phi, di cư tới châu Á cách nay độ một triệu năm (Ciochon, 1988). Người Vượn có thể xuất hiện trên đất nước Việt Nam cách nay độ 250.000 năm hoặc sớm hơn, nhưng chưa có chứng cớ xác thực. Nhưng Người Khôn Ngoan Sớm (Homo sapien) có thể hiện diện ở nước ta cách nay 70.000-60.000 năm và Người Khôn Ngoan Muộn (Homo sapiens sapiens) độ 30.000 năm, căn cứ vào một số di chỉ khảo cổ được tìm thấy như răng, cốt người hóa thạch trong các hang động (Viện Khảo Cổ Học, 1998).
Việt Nam, thời đại sơ kỳ Đá Cũ đã được ghi nhận và khảo sát ở di chỉ khảo cổ Núi Đọ thuộc Miền Bắc và Xuân Lộc ở Miền Nam (cách nay khoảng 300.000 năm), mặc dù các công cụ (Hình 1), vật liệu thu thập được trên mặt đất còn giới hạn và các phương pháp xác định niên đại chưa có tính cách thuyết phục. Tiếp theo thời đại này, các nhà khảo cổ cũng “xác định” được các giai đoạn thời hậu kỳ đá cũ, như sau:
- Kỹ nghệ Ngườm (30.000-23.000 năm cách ngày nay).
- Văn hóa Sơn Vi (18.000-11.000 năm cách ngày nay).
Một cách tổng thể, thời đại Đá Mới và Kim Khí gồm có các nền văn hóa chủ yếu như sau:
- Văn hóa Hòa Bình (10.000-8.000 năm cách ngày nay)
- Văn hóa Bắc Sơn (6.000-5.000 năm cách ngày nay)
- Văn hóa Phùng Nguyên 4.500-3.500 năm cách ngày nay)
- Văn Hóa Đồng Đậu (3.500 – 3.000 năm cách ngày nay)
- Văn hóa Gò Mun (3.100-2.800 năm cách ngày nay)
- Văn hóa Đông Sơn (2.800 – 1.800 năm cách ngày nay)
Các nền văn hóa sau này có thời gian ngắn hơn, do con người ngày càng tiến bộ nhanh hơn.
II. GIAI ĐOẠN SĂN BẮT-HÁI LƯỢM VÀ NÔNG NGHIỆP SƠ KHAI
(cách nay 18.000 – 000 năm)
(Viện Khảo Cổ Học, 1998 và 1999; Bùi Thiết, 2000; Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2.000; và Viện Thành Tựu Khoa Học Xã Hội, 1987).
Trong giai đoạn hậu kỳ thời đại Đá Cũ, con người còn sống rất hoang dã. Họ trải qua giai đoạn phát triển trí tuệ và thể chất để thích ứng với môi trường thiên nhiên và tồn tại. Nhờ đó, sinh hoạt hàng ngày của họ thay đổi dần theo thời gian, từ sinh hoạt săn bắt và hái lượm tiến đến nghề “nông nghiệp sơ khai” để có đời sống tương đối tốt hơn và ổn định hơn, sau thời kỳ Băng Giá cuối cùng và Tiểu Hạn (Younger dryas) khô lạnh1.
2.1. Giai đọan săn bắt và hái lượm
Theo các nhà khảo cổ học, kỹ nghệ mảnh tước được tìm thấy ở mái đá Ngườm, Thái Nguyên, được gọi là kỹ nghệ (hay văn hóa) Ngườm (Hình 2) phát triển trước nền văn hóa Sơn Vi (từ 18.000 – 11.000 năm cách ngày nay). Cả hai giai đoạn tiến hóa này thuộc hậu kỳ thời đại Đá Cũ. Giai đoạn đóng băng đạt đến cực đại cuối cùng (và bắt đầu băng tan) cách nay khoảng 20.000-18.000 năm.
Từ thời Người Khôn Ngoan sớm (Homo sapiens) cho đến người Sơn Vi, các di vật khảo cổ liên hệ đến nền nông nghiệp sơ khai không được tìm thấy ở các địa điểm khai quật, ngoài các công cụ thuộc thời đại Đá Cũ liên quan đến sinh hoạt con người như cắt, chặt, bổ…, và các bào tử hạt phấn của một số loài thảo mộc thiên nhiên. Lúc bấy giờ, con người sống từng bầy từng nhóm, với sinh hoạt chủ yếu là săn bắt và hái lượm ngoài trời để sinh tồn và đời sống của họ hoàn toàn hoang dã, di động. Con người tìm những thức ăn thảo mộc như cây có củ (như củ từ), cây đậu và hái những hạt lúa hoang trong các đầm lầy, rừng núi (Chang, 1985). Ở Việt Nam, họ còn bắt ốc núi, ốc suối và thú rừng làm lương thực. Trong điều kiện khí hậu gió mùa có nắng ấm mưa nhiều, đất nước Việt Nam vào thời nguyên thủy chắc chắn có quần thể thực vật rất phong phú và đa dạng, cung cấp cho các cư dân nguồn thực phẩm thảo mộc và động vật thiên nhiên vô hạn.
2.2. Nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong văn hóa Hòa Bình
Tiếp theo nền văn hóa Sơn Vi, con người bước đến giai đoạn văn hóa Hòa Bình cách nay khoảng 10.000-8.000 năm hay bắt đầu thời đại Đá Mới. Nền văn hóa này do bà Madeline Colani khám phá (1926), đã xuất hiện không những ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Đông Nam Á, như Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Malaysia, Indonesia, Philippines… Con người còn sống từng băng, lấy hang động làm đơn vị cư trú. Có những hình khắc mặt người (Hình 3) và thú trên vách đá hang động trong hang Đồng Nội. Với câu “ăn lông lỗ” người ta có thể tưởng tượng đời sống người thượng cổ còn man dại, phần lớn săn bắt và hái lượm là nền kinh tế chủ yếu của họ. Hàng ngày con người rủ nhau đi săn bắn hoặc xuống sông suối bắt ốc, cá hoặc hái lượm các loài cây củ đậu để làm thức ăn. Đời sống luôn phải di chuyển để tìm thức ăn vì chưa biết trồng các loại cây kinh tế cố định. Trong nền văn hóa Hòa Bình – buổi bình minh của nhân loại – con người đã có ít khái niệm chống chế thiên nhiên và có ít sáng kiến trong công việc chế tạo dụng cụ sản xuất hữu hiệu hơn để có nhiều thức ăn. Cũng giống như nền văn hóa Sơn vi, công cụ của nền văn hóa này làm bằng đá cuội để chế tạo các vật dụng bằng gỗ tre, nhưng có phần tốt hơn. Các nhà khảo cổ học xem các dụng cụ ghè đẽo một mặt (Hình 4), còn giữ nguyên một mặt vỏ đá cuội là đặc trưng của văn hóa Hòa Bình. Trong nền văn hóa này chưa có hoặc rất hiếm đồ gốm.
Di tích động vật của nền văn hóa Hòa Bình gồm có các loài nhuyễn thể như ốc núi, ốc suối, loài trai. Các nhà nghiên cứu cho rằng các loại ốc này là đối tượng chính trong hái lượm của cư dân văn hóa Hòa Bình do ít nguy hiểm. Xương động vật có xương sống còn rất ít, gồm các loài hoang dã chưa thuần thục như vượn, khỉ, nhím, chuột, hươu, hoẵng, nai, bò rừng, trâu rừng, lửng, vòi hương, hổ và rất ít voi cổ, tê giác và lợn rừng (Vũ Thế Long, 1984).
Kết quả phân tích bào tử phấn hoa của nền văn hóa Hòa Bình cho thấy có tới 22 loài bào tử và trên 40 loài phấn hoa khác nhau, trong đó chưa gặp các loại thảo mộc được con người thuần dưỡng (Trần Đạt, 1987). Tuy nhiên, lớp trên của văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn đã có các rìu mài lưỡi có thể dùng phát hoang để trồng trọt. Điều này cho biết thức ăn thực vật hoang dã chiếm vị trí đáng kể trong hoạt động hái lượm.
Trong các nghiên cứu phân tích phấn hoa, người ta tìm thấy với số lượng cao của các giống cây họ Đậu (Leguminoceae) ở các di tích hang Bưng, Hòa Bình; họ rau Muối (Chenopediaceae) ở hang Con Moong và xóm Trại, Hoà Bình và họ Cà Phê (Rubiaceae)
hang Con Moong. Ngoài ra, các di tích của nền văn hóa Hòa Bình còn có các loài hạt quả như hạt gắm (Gnetum montanum), hạt cọ (Livistona cochinchinensis), hạt côm (Elaeocarpus sylvestris), hạt me (Phyllanthus emblica L.), hạt trà (Thea sp.), trám tre (Canarium tonkinensis) và trám (Canarium sp.). Tại các di chỉ Hạ Sơn (Thái Nguyên) trong tổng số 38 hạt, dương xỉ có tới 9 hạt, phấn hoa thực vật hạt kín là 20 hạt, chủ yếu là: Lithoiagus, Quercus, Magnolia, Corylus, Betula, Graminae, Araceae (Nguyễn Địch Dỹ và Đinh Văn Thuận, 1981) (Xem Phụ Bản 1: Khảo cổ học Việt Nam: Biến đổi khí hậu và Biển tiến-biển lùi).
hang Ma (Spirit cave) thuộc miền biên giới Thái Lan và Miến Điện, nhà khảo cổ học Chester Gorman (1969) đã tìm thấy được 28 loại bào tử phấn hoa của các loài cây ăn trái khác nhau, di vật hóa than như hai hột đậu Hòa Lan, củ năng, hột ớt, những đoạn dây bầu bí và dưa chuột, cùng với những dụng cụ bằng đá của những người dân có nền văn hóa Hoà Bình xuất hiện cách nay ít nhứt khoảng 8.000 – 6.000 năm. Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn tìm thấy dấu vết hạt lúa và vỏ trấu trên những mảnh gốm ở Non Nok Tha thuộc vùng Korat với niên đại phóng xạ cách nay khoảng 6.000 năm (Solheim II, 1967 và 1971). Ông Higham (1989) báo cáo vỏ trấu và liềm gặt lúa bằng vỏ sò được tìm thấy ở Khok Phanom Di gần vùng vịnh Thái Lan có niên đại phóng xạ cách nay 8.000-6.000 năm.
Tại Việt Nam, dù chưa có di tích thực vật rõ rệt, nhưng sự hiện diện của các rìu đá sơ cổ trong nền văn hóa Hòa Bình giúp các nhà nghiên cứu phỏng đoán thời kỳ nông nghiệp sơ khai có thể xuất hiện ở Việt Nam đồng thời với nhiều nước trong vùng Đông Nam Á. Con người bắt đầu thuần dưỡng một số thảo mộc và loài thú hoang dã, ngoài sinh hoạt hàng ngày với hái lượm và săn bắt để có nhiều thực phẩm và tránh bớt nguy hiểm từ thú dữ. Đây có lẽ là cuộc “Cách Mạng Xanh” đầu tiên (còn gọi Cách Mạng Đá Mới) của những cư dân đất Việt lúc bấy giờ, vì từ một cuộc sống hoàn toàn theo thiên nhiên trở nên cuộc sống với hướng đi mới: nghề nông nghiệp. Họ là những người nông dân đầu tiên ở Việt Nam.
Theo một số nhà khảo cổ học, Cuộc Cách Mạng Đá Mới xảy ra do áp lực của khí hậu khô lạnh khắc nghiệt, gọi là Tiểu Hạn (cách nay 13.000-11.500 năm), áp lực dân số (từ “bầy người” tiến đến “băng” và “bộ lạc”) và trình độ văn hóa tiến bộ của con người.
Đối với cây lúa dại, cư dân lượm hoặc hái hạt lúa nhiều đợt để ăn vì thời gian hạt chín kéo dài và dễ rơi rụng. Qua nhiều năm tháng, họ biết lựa chọn hạt to, ít rụng để gieo trồng gần nhà hầu có thêm lương thực, ngoài sinh hoạt săn bắt và hái lượm thường xuyên. Công tác thuần dưỡng này, nhứt là từ thảo mộc hoang dại để trở thành cây sản xuất đòi hỏi rất nhiều thời gian và lao động của người thuần dưỡng. Theo một báo cáo khảo cổ gần đây ở vùng Trung Đông, thời gian thuần dưỡng từ thảo mộc hoang dã cho đến có hệ thống trồng trọt sản xuất kéo dài khoảng 1.000 năm. Thông tin này có được là do phân tích những mẫu di vật còn sót lại trong thời Đồ Đá Mới (9.600 – 9.300 năm cách ngày nay- kể từ 1950) tại một khu vực gần Biển Chết ở nước Jordan. Đây là khoảng thời gian con người bắt đầu chính thức thuần hóa một số loài thảo mộc trên thế giới và cũng là thời gian họ bắt đầu định cư (Nguyễn Sinh, BBC News, 2007).
Vào thời nguyên thủy, cây lúa dại là loại thực vật đa niên, trở thành cây lúa dại hàng niên vì chịu ảnh hưởng của khí hậu và môi trường trong quá trình thuần dưỡng. Qua nhiều năm tháng cây lúa dại trở nên cây lúa trồng có năng suất cao hơn do sự tuyển chọn của con người để có hạt to và nhiều. Theo khảo cứu, cây lúa dại đa niên Oryza rufipogon được thuần dưỡng trở thành cây lúa dại hàng niên Oryza nivara. Sau cùng do thích ứng với thủy thổ địa cầu, chủ yếu khí hậu khô ẩm, nóng lạnh và mưa nắng cây lúa dại hàng niên trở thành cây lúa trồng Oryza sativa hay cây lúa châu Á (Khush, 1997); sau đó cây lúa này tiếp tục tiến hóa thành 3 nhóm lúa Indica vùng nhiệt đới, lúa Japonica (Sinica) vùng ôn đới và lúa Javanica (hay Japonica nhiệt đới) trung gian giữa 2 nhóm này. Cũng nên nhắc lại một số nhà khảo cứu quốc tế, trong đó có Tiến Sĩ T.T. Chang (1985) của IRRI, Philippines tin rằng miền thượng du Bắc Bộ là một trong những trung tâm nguồn gốc xuất phát cây lúa trồng trên thế giới (Xem thêm Chương 2: Nguồn gốc cây lúa Việt Nam và Chương 3: Tiến hóa cây lúa và các loại lúa).
III. GIAI ĐOẠN TRỒNG LÚA RẪY SƠ KỲ
3.1. Nền văn hóa Bắc Sơn (cách nay 7.000-5.000 năm)
Sau nhiều năm thuần dưỡng, cư dân đã biết được cây lúa trồng có khả năng cung cấp nhiều thực phẩm, nên người tham gia trồng lúa ngày càng đông. Họ tập họp thành từng nhóm người ngày càng lớn. Vì thế, trong nền văn hóa Bắc Sơn và Quỳnh Văn, tiếp theo nền văn hóa Hòa Bình, các nhà khảo cổ học phát hiện nhiều “bộ lạc trồng lúa” sinh hoạt không những ở khắp nước Việt Nam mà còn nhiều nước Đông Nam Á (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000). Thái Lan và Philippines cũng tìm thấy dấu vết trồng lúa trong thiên kỷ VII và VI cách ngày nay. Vào thời đại Đá Mới giữa này, con người đã bắt đầu sống ngoài hang động và các mái đá của vùng núi đá vôi. Họ vẫn giữ truyền thống chế tạo công cụ bằng đá cuội như các nền văn hóa trước, nhưng họ đã biết mài đá làm những chiếc rìu mài có lưỡi, còn gọi rìu Bắc Sơn (Hình 5 và 6). Thời kỳ Đồ Đá Mới bắt đầu từ 8.000 đến 3.000 năm trước đưa đến cuộc “Cách Mạng Đá Mới” (Bùi Thiết, 2.000). Nhờ dụng cụ đá mài, rìu mài họ có thể chặt cây, phá rừng dễ dàng và nhanh hơn để phát triển nghề nông nghiệp nương rẫy.
Nhiều di vật của nền văn hóa Bắc Sơn được tìm thấy, trong đó có một mảnh đá có khắc vẽ lá của họ Hòa Thảo (lá dài với những gân song song) chứng tỏ là lá lúa (Colani, 1930 theo Bùi Huy Đáp, 1980) (Hình 7). Di vật nầy cho biết loài lúa đã được người nguyên thủy biết và chú ý đến, ngoài rau đậu và cây củ. Với quá trình phát triển hàng ngàn năm, tầm quan trọng cây lúa ngày càng lớn, do cung cấp lương thực cho cư dân và loại thảo mộc này có thể sinh sống trong những điều kiện phong thổ khó khăn, như ngập nước, khô hạn, nước phèn, nước mặn, v.v. Ngoài ra, hạt lúa còn có ưu thế tồn trữ lâu dài so với nhiều nông sản khác, nên có thể đáp ứng đòi hỏi về kinh tế và an ninh lương thực của dân cư ngày thêm đông đảo.
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy các bộ lạc trồng lúa ở khắp nơi từ Bắc chí Nam, đáng chú ý nhất là văn hóa Hạ Long (Quảng Ninh-Hải Phòng) với các di vật như rìu, bôn có cán lắp, khoan tách lõi; Văn hóa Bàu Tró (Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình), với bàn nghiền, bàn xát rất lớn, chiếc cuốc đá có chuôi lắp vào cán; và văn hóa Cầu Sắt (Xuân Lộc, Đồng Nai) với rìu vai xuôi, rìu tam giác, cuốc móng trâu, đục, dao đá có hình bán nguyệt gọi là “dao liềm” hay “dao hái” có thể để gặt lúa. Bộ sưu tập Cầu Sắt mang đặc trưng chung của thời đại hậu kỳ Đá Mới; cho nên cùng với các trung tâm văn hóa khác của nước, nền văn hóa nông nghiệp lúa của sông Đồng Nai đã làm đa dạng hóa và tô đậm nét nền văn hóa dân tộc cách nay khoảng 5.000 năm (Hoàng Xuân Chinh et al., 1978).
Người ta không biết được chính xác các bộ lạc trồng lúa xuất hiện từ lúc nào, nhưng có thể đoán rằng vào cuối thời đại Đá Mới, khoảng 6.000-5.000 năm trước. Vì bấy giờ chưa có gia súc và dụng cụ nông nghiệp tốt, người dân nguyên thủy phải dùng sức lực con người và các công cụ đá mài để khắc phục thiên nhiên. Họ có thể bắt đầu làm lúa rẫy bằng cách dùng rìu đá mài chặt phá cây rừng độ một thước cách mặt đất, phơi khô, trước khi mưa đến dùng lửa đốt cây cỏ làm sạch đất, lấy tro làm phân một cách ngẩu nhiên (vô ý thức lúc ban sơ) (“đao canh hỏa chủng”). Sau đó, họ dùng gậy chọc lỗ, gieo hạt, lắp đất, thỉnh thoảng làm cỏ, trông chừng thú rừng phá hại và chờ lúa chín hái nhặt. Nhiều dân tộc thiểu số hiện nay còn tuốt gié lúa chín bỏ vào gùi mang trên vai. Ngoài ra, ở các thung lũng, đầm lầy quanh nơi cư trú họ có thể dùng lưỡi cuốc đá nhọn để xới đất, gieo trồng lúa; nhưng còn rất hiếm vào thời kỳ này. Vả lại, hiện tượng biển tiến vẫn còn, có lúc mực nước lên cao đến 5 m so với mực nước biển hiện nay (Xem Phụ Bản 1: Khảo cổ học Việt Nam: Biến đổi khí hậu và Biển tiến-biển lùi).
Đó là lý do để tin tưởng nghề trồng lúa rẫy xuất hiện trên đồi núi sớm hơn nghề trồng lúa nước sau này ở Việt Nam và Đông Nam Á. Ngoài ra, còn do thói quen, con người ưa thích sinh sống và hoạt động nông nghiệp trên đất cao trước khi di chuyển xuống thung lũng, đầm lầy do áp lực dân số. Cuộc Nam tiến của người Việt và di dân khai khẩn đồng bằng sông Cửu Long là một bằng chứng. Người dân Phi Châu hiện chưa tận khai thác các vùng đất trũng thấp hoang dã, nhưng có tiềm năng lớn cho phát triển đời sống xã hội; trong khi lục địa Châu Á nay không còn nhiều đầm lầy chưa khai phá.
Ngoài ra, ở miền trung du Bắc Việt thuộc tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Sơn Bình là vùng đất cao còn nhiều đồi trọc, theo các nhà thổ nhưỡng học cho rằng do kết quả làm ruộng theo kiểu “làm nương đốt rẫy” trước đây nên đất đai trở nên cứng rắn thành đá ong. Điều này cho biết cư dân đã đến ở đây trước khi xuống sinh sống ở các vùng thấp đồng bằng, họ làm nương rẫy trước khi có ruộng nước, hoặc ruộng rẫy chiếm tỉ lệ cao so với loại ruộng sau này. Các chiếc rìu đá, cuốc đá tìm thấy được ở nền văn hóa Bắc Sơn và Phùng Nguyên chứng minh điều này (Văn Tân và cộng sự viên, 2008).
Trái lại, người dân ở đồng bằng sông Ganges, Ấn Độ và vùng châu thổ sông Hoàng Hà và Dương Tử, Trung Quốc, bắt đầu trồng lúa ở các vùng trũng thấp và đồng bằng trong thời tiền sử.
Các cư dân trồng lúa rẫy phải trải qua một giai đoạn thử thách về an ninh lương thực cho cả bộ lạc trồng lúa, vì sau khi trồng loại lúa này trên đất cao 3-4 năm, năng suất giảm sút dần cho đến không còn gì để thu hoạch, do mỗi năm cỏ dại xâm chiếm mạnh hơn và mức độ phì nhiêu đất đai ngày càng vơi cạn. Vì vậy, họ phải đi tìm vùng đất rừng mới để chặt phá, đốt lửa, chọc lỗ, gieo hạt và thu hoạch. Độ khoảng 10-20 năm sau, họ có thể trở lại trồng trọt nơi mảnh đất cũ đã bỏ hoang, sau khi mức phì nhiêu đất đai phục hồi. Đó là lối sống du canh, nhưng không phải di chuyển mỗi ngày như thời kỳ săn bắt và hái lượm của bầy người và băng nhóm. Lối sống và hệ canh tác này vẫn còn tồn tại ngày nay ở miền thượng du Bắc Việt và Tây Nguyên Trung Phần.
Cư dân đã đạt một bước tiến bộ đáng kể trong thời đại cổ sơ. Đây là lúc đời sống cư dân đất Việt cổ tiến đến sự thay đổi mới, với các biến chuyển quan trọng trong cơ cấu xã hội và đời sống con người. Nhờ vào nền nông nghiệp trồng lúa, đời sống con người ngày càng ổn định hơn và phát triển về mặt xã hội, tổ chức và tinh thần. Đó là nền văn minh lúa khô thời tiền sử.
3.2. Nền văn hóa ven biển Đa Bút – Quỳnh Văn (cách nay 6.000 – 3.000 năm)
Sau thời kỳ văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn, biển tiếp tục lùi dần, các đồng bằng sông Hồng và Cửu Long bắt đầu tái lập và các tập đoàn cư dân mở rộng tầm hoạt động xa hơn, di chuyển từ đồi núi, vùng cao xuống thung lũng, đồng bằng và ven biển để sinh sống dễ dàng. Do đó, vào thời đại Đá Mới có hàng loạt văn hóa ven biển xuất hiện, đáng kể hơn hết là văn hóa Đa Bút phân bố ở Thanh Hóa và nền văn hóa Quỳnh Văn xuất hiện ở Nghệ An và Hà Tĩnh, có niên đại từ 4.000 đến 3.000 năm trước CN.
Cư dân sống trong môi trường gần biển và cửa sông nên nguồn thức ăn chính là các ốc sò nước lợ chủ yếu là loài hến, hay nước biển như sò gai, điệp, ngao. Ngoài ra, họ còn săn bắt ở các khu rừng xung quanh mà di vật tìm được như xương răng thú rừng: hươu, nai, trâu, bò, lợn, nhím… Điều đáng chú ý là một số nhà nghiên cứu đã nhận ra vài động vật được con người nuôi dưỡng như trâu và lợn (Patte 1932 và Vũ Thế Long, 1979). Sự hiện diện của trâu trong thời kỳ này cho biết có thể cư dân biết làm ruộng nước; nếu không, nuôi trâu để làm gì? Kỹ nghệ gốm cũng bắt đầu phát triển với những di vật đồ đựng thô, chất liệu pha nhiều sạn sỏi to, đáy tròn, không chân đế. Các di vật đồ đá tiến bộ hơn như cưa, đục, chì lưới, rìu mài (Hình 8); cho thấy kỹ nghệ đá và trình độ của Đa Bút tiến bộ hơn văn hóa Bắc Sơn và những dụng cụ này được dùng để sản xuất nông nghiệp và đánh cá.
Tóm lại, các di vật thu lượm từ nền văn hóa Đa Bút như bào tử phấn hoa rau quả củ, xương trâu lợn và đồ gốm sơ khai cho biết trình độ văn hóa của cư dân ven biển tiến bộ khá nhiều so với cư dân lục địa, nhờ thường xuyên giao lưu với các dân tộc đảo biển và quốc gia khác. Các bào tử phấn hoa được tìm thấy trong nền văn hóa này xác nhận một nền nông nghiệp trồng trọt cổ sơ đã xuất hiện sớm hơn trên các vùng ven biển (Nguyễn Địch Dỹ et al., 1980), trong khi chưa tìm thấy di vật này trong nền văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn. Trong nền văn hóa này, cư dân vẫn còn lưu giữ truyền thống chế tác đá cuội cùng với hiện diện của một số loại rìu ngắn, công cụ bầu dục và rìu mài lưỡi (Hình 8). Nền nông nghiệp vượt xa hơn các vùng khác khi phát hiện cư dân ven biển biết thuần dưỡng gia súc sớm và biết tạo ra các khu vườn cung cấp thêm thức ăn xung quanh nơi cư trú. Cũng vậy, đồ gốm thô xuất hiện sớm hơn, biểu hiện đời sống văn hóa vùng ven biển phong phú vượt bực.
Trong nền văn hóa biển Quỳnh Văn (Quỳnh Lưu, Nghệ An) cũng có đồ gốm sơ kỳ ở rải rác dọc bờ biển mà hoạt động chủ yếu của cư dân là đánh cá, hái lượm. Di tích độc đáo của nền văn hóa khảo cổ này ở dạng cồn sò điệp phân bố ở quanh vịnh biển cổ Quỳnh Lưu. Mặc dù vị trí công cụ đá kém quan trọng hơn văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhóm công cụ không gia công như hòn ghè, hòn kê, bàn nghiền, chày nghiền to lớn (Hình 9), cối và chày đá ở di chỉ Quỳnh Văn, mà nhiệm vụ chính chỉ để dùng lột vỏ các hạt – có thể là hạt lúa với một số lượng nhiều hơn (Nguyễn Trung Chiến, 1998). Trong thời gian này đã có nhiều bộ lạc bắt đầu định cư ở dọc bờ biển, trên núi rừng, hang động.
3.3. Nền văn hóa Nam Bộ: Cầu Sắt – Suối Linh (cách nay 5.000 – 3.000 năm)
Nền văn hóa Cầu Sắt – Suối Linh được coi là biểu tượng cho giai đoạn phát triển sớm nhứt của thời đại kim khí thuộc lưu vực sông Đồng Nai, do vết tích của loại rìu đá có vai kích thước nhỏ và trung bình với tỉ lệ hơn hẳn các công cụ khác và loại dao hái nhỏ, ghè mài từ những mảnh tước nhỏ có mũi nhọn để làm dụng cụ nông nghiệp. Đồ gốm có trình độ kỹ thuật cao, chế tạo bằng bàn xoay và một số khác bằng tay, độ nung cao, thành gốm mỏng…(Phạm Đức Mạnh, 1997). Chưa tìm được dấu vết kim loại và mộ táng. Ngành nông nghiệp cuốc đá hiện diện rõ nét. Do đó, niên đại của Cầu Sắt tương đương với giai đoạn Phùng Nguyên ở phía Bắc hoặc sớm hơn, tức cách nay khoảng 4.500 năm.
Sự hiện diện dày đặc của các di vật đa dạng như đá, đồng, sắt, gốm, xương, thủy tinh… ở nền văn hóa Đồng Nai cho thấy cư dân sống khá đông đảo cách nay ít nhứt 5.000-4.000 năm. Cư dân Đồng Nai sinh sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp dùng cuốc với các công cụ sản xuất có số lượng rất lớn như rìu có vai hay tứ giác, dao hái, dao cắt khá độc đáo, cuốc đá rất phổ biến (Hình 10, 11, 12) và nhiều đồ đựng bằng gốm. Nông dân dùng những chiếc rìu đá không những để chế tạo dễ dàng hơn những vật bằng gỗ hay tre, mà còn có thể chặt cây, phá rừng trồng trọt trên đất cao, chủ yếu nông nghiệp nương rẫy, làm vườn.
Sự hiện diện của các di vật cuốc đá, dao hái, dao cắt khá phong phú ở nhiều địa điểm khảo cổ chứng tỏ nghề trồng lúa rẫy xuất hiện trước ở trên đất cao hoặc sườn đồi núi, sau đó lúa nước có mặt ở nơi trũng thấp hoặc ven sông dù ít hơn, bên cạnh các hoạt động hái lượm và săn bắt truyền thống ở Miền Đông Nam Bộ. Nhờ đó, cư dân có đời sống ổn định hơn, họ thành lập xóm làng lâu đời, với các di vật phát hiện dày đặc là chứng tích.
Tóm lại, sự tiến hóa của nghề trồng lúa qua các nền văn hóa khảo cổ học như sau:
- Cư dân Hòa Bình có thể hái lượm các loài lúa dại để làm thức ăn cùng với rau, củ, đậu và họ bắt đầu thuần dưỡng cây lúa dại quanh nơi cư trú (khoảng 8.000-6.000 năm).
- Cây lúa rẫy được cư dân Bắc Sơn trồng sản xuất khá nhiều trên các gò cao, triền đồi núi. Những bộ lạc trồng lúa xuất hiện ở Đông Nam Á gồm cả Việt Nam cách nay khoảng 6.000-5.000 năm.
IV. KẾT LUẬN
Suốt thời đại Đá Cũ lâu dài, con người vẫn còn sống với cuộc đời hoang dã, hòa hợp hoàn toàn với thiên nhiên và không có quyền tự chủ. Mãi đến khởi đầu Cách Mạng Đá Mới cách nay độ 10.000 năm, con người tiến vào giai đoạn thay đổi lớn để chuẩn bị trở thành con người thật sự của ngày hôm nay, khi họ nhận thức nghề nông nghiệp sơ khai có khả năng giúp họ ổn định cuộc sống trong tương lai. Từ đó, song song với sinh hoạt săn bắt hái lượm truyền thống, con người bắt đầu thuần hóa một số loài thực vật và động vật hoang dại liên hệ đến đời sống hàng ngày của mình. Cây lúa đã được cư dân trên địa bàn Việt Nam và một số nước Đông Nam Á chú ý đặc biệt và thuần dưỡng; sau đó, loại thảo mộc này trở nên nguồn lương thực căn bản cho nhiều dân tộc thế giới.
Miền thượng du Bắc Việt được các chuyên gia lúa gạo quốc tế xem như một trong những trung tâm nguồn gốc nguyên thủy xuất phát cây lúa trồng. Trong thời gian 6.000 – 5.000 năm, cây lúa dại đã được cư dân thượng du thuần hóa và tuyển chọn để trở thành một màu kinh tế chủ yếu của đất nước ta sau này. Trong khoảng 3.000 năm qua, lúa gạo luôn là một cây Hòa Thảo quan trọng, được các triều đại và nhà cầm quyền dành ưu tiên cao để phát triển kinh tế đất nước. Có phải chăng cây lúa là một thành tố quan trọng quyết định trong quá trình xây dựng đất nước Việt Nam từ thời cổ đại đến gần đây?!
THỜI CỔ ĐẠI: PHÁT TRIỂN TRỒNG LÚA NƯỚC (Hùng Vương – An Dương Vương: 4.000 – 2.180 năm trước)
I. MỞ ĐẦU
Từ thời kỳ Đồ Đá Cũ đến thời kỳ Đồ Đá Mới và Kim Khí, cư dân đất Việt đã tích tụ hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người ngày càng nhiều hơn, qua các nền văn hóa khảo cổ học như văn hóa Sơn Vi trong hậu kỳ Đá Cũ đến nền văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn-Đa Bút của thời đại Đá Mới; văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun của thời đại Đồng Thau. Nền kinh tế nông nghiệp ra đời đã giúp cho đời sống con người chuyển đổi từ du mục đến định cư và sau đó phát triển nhanh hơn mọi mặt để tiến đến nền văn minh hiện đại hôm nay. Họ đã thuần dưỡng những cây lúa dại đa niên trở thành hàng niên và cây lúa trồng, có khả năng sản xuất đáp ứng nhu cầu lương thực dân tộc ngày càng đông. Nghề nông nghiệp lúa tiến bộ được biểu hiện qua kỹ thuật canh tác và các công cụ sản xuất hữu hiệu hơn như rìu, cuốc, cày, mai… bằng đá, đồng, sắt. Ngành trồng lúa rẫy đạt đến mức cực thịnh và nông nghiệp lúa nước bắt đầu xuất hiện sau khi mực nước biển thoái dần. Kinh nghiệm tích lũy của cư dân qua các nền văn hóa nêu trên là tiền đề quan trọng cho sự lớn mạnh cộng đồng Việt Cổ và hình thành đất nước Văn Lang vào thiên kỷ II và I trước CN, khai sáng nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ trong thời Cổ Đại, và xuất hiện thời đại Hùng Vương-An Dương Vương lớn mạnh trên bờ Biển Đông.
II. GIAI ĐOẠN TRỒNG LÚA RẪY VÀ LÚA NƯỚC SƠ KỲ
2.1. Văn hóa Phùng Nguyên (cách nay 4.500 – 3.500 năm)
Đây là nền văn hóa rất quan trọng, làm trung gian giữa thời đại Đồ Đá và thời đại Kim Khí, mốc ngoặc của nền văn minh vượt bực của dân tộc. Qua các công trình khai quật và kết quả khảo cổ quý giá đã thu đạt được trong nền văn hóa Phùng Nguyên và các văn hóa tiếp theo từ thời Pháp thuộc cho đến nay, các nhà khảo cổ học và sử học khẳng định đã có nhiều bằng chứng cụ thể không những cho sự xuất hiện nền văn hóa Đông Sơn, còn xác nhận thực tế “lịch sử 4.000 năm văn hiến của nước Việt Nam” và địa bàn hoạt động có thật của “đất Phong Châu một thời Hùng Vương” (Viện Khảo Cổ Học, 1999). Tuy nhiên, lịch sử đến nay ghi nhận triều đại Hùng Vương chỉ có 18 đời Vua (khoảng từ 700 đến 258 năm tr. CN). Một khoảng lịch sử dài (1.300 năm) bị mất dấu tích!
Nền văn hóa Phùng Nguyên đánh dấu thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và hình thành một xã hội mới có giai cấp sớm nhứt. Dân tộc Việt cổ bước vào thời đại mới với sức sống mãnh liệt, óc sáng tạo không ngừng và sự đoàn kết giữ nước. Vào thời đại đó, đất nước đã có nền văn hóa khá cao, một nền nông nghiệp hoạt động vững chắc với văn minh lúa nước phồn thịnh, góp phần vào nền văn minh cổ đại của loài người. Đó là thời đại Hùng Vương bắt đầu từ trước đây 4.000 năm với tập hợp của nhiều dân tộc gốc Nam (Văn Tân và cộng sự viên, 2008).
Ngoài ra, đất nước Việt Nam chỉ được nhắc đến trong lịch sử nhân loại cách nay hơn 4000 năm, khi sứ giả đầu tiên của Việt Thường (từ Quảng Trị đến Quảng Nam), một trong 15 bộ của nước Văn Lang, sang chầu và dâng tặng “rùa thần” dài độ một thước cho vua Đường Nghiêu vào năm Mậu Thân, năm thứ 5 (nhà Đường Nghiêu: 2357-2258 tr CN) (Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia,1998).
Nền văn hóa Phùng Nguyên tập trung ở khu vực hợp lưu của các sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Thao và sông Đáy, thuộc phía nam tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Nội và phần phía nam của tỉnh Bắc Ninh. Nền văn hóa này xuất hiện và phát triển từ 2.000 năm đến 1.500 năm tr CN. Người Phùng Nguyên thường cư trú trên các gò đồi cao, cách mặt ruộng độ từ 0,5 đến 5-6 m. Tầng văn hóa không dày lắm từ 0,7 đến 2 m. Về nhà ở chưa được rõ ràng, nhưng các nhà khảo cổ đã tìm thấy ở Văn Điển (Hà Nội) nhiều hố đất đen hình tròn, kích thước tương tự nhau, ăn sâu xuống đất, trông giống các hố chôn cột nhà. Họ cũng tìm thấy di tích xưởng chế tạo công cụ đá ở Gò Chè, chế tạo mũi khoan ở Bãi Tự và vòng trang sức ở Tràng Kênh, với trình độ kỹ thuật chuyên môn cao.
Công cụ sản xuất gồm có cuốc đá hình tứ giác có lưỡi lệch về một bên, rìu đá tứ giác có lưỡi cân xứng, trong đó có nhiều rìu chế tạo bằng đá ngọc Nephrite có màu sắc đẹp (Hình 1). Ngoài ra, còn có nhiều đục đá (Hình 2) chiều dài 3-4 cm, thân rộng hơn 1 cm và bề dày 0,3-0,5 cm, dao đá, liềm đá. Chiếc liềm đá có công dụng quan trọng trong công việc gặt hái ngũ cốc, cắt cỏ; sự có mặt của liềm đá cho thấy tầm quan trọng của sản xuất lương thực ngày xưa (Viện Khảo Cổ Học, 1998).
Ngoài ra, nhóm công cụ sản xuất còn có cưa đá, mũi khoan đá, bàn mài (bàn mài bằng, bàn mài rãnh, bàn mài trong), hòn kê, hòn đập, bàn đập.
Hơn 50 địa điểm tìm được với nền văn hóa Phùng Nguyên cho thấy những làng định cư lâu dài có đời sống nông nghiệp dùng rìu cuốc đá, chủ yếu trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt và đánh cá. Sự phát hiện lưỡi liềm đá ở Gò Bông và nhiều chiếc rìu nhỏ; cho thấy có nền nông nghiệp trồng lúa phát triển ở ruộng nước và trên đất cao (rẫy). Ngoài ra, còn có các đồ đựng bằng gốm có kích thước lớn để tồn trữ ngũ cốc cho thấy cư dân Phùng Nguyên có đời sống định cư lâu dài.
Các nhà khảo cổ cũng tìm được các tượng động vật như tượng đầu gà ở Xóm Rền làm bằng gốm. Các ngôi mộ khai quật còn tìm thấy hàm lợn ở Lũng Hòa, xương chó ở Tràng Kênh cho biết người Phùng Nguyên đã biết chăn nuôi nhiều thú vật mà ta có ngày nay.
Trong nền văn hóa Phùng Nguyên còn xuất hiện kim loại đồng và kỹ thuật luyện kim: hợp kim đồng thau gồm có đồng và thiếc, được gọi “sơ kỳ đồ đồng”. Một mảnh vòng hay dây kim loại được tìm thấy ở Bãi Tự, Tiên Sơn (Bắc Ninh) (Phạm Văn Thích và Hà Văn Tấn, 1970), dây chì (Diệp Đình Hòa, 1978). Nền văn hóa Phùng Nguyên mở đầu cho thời đại đồng thau Việt Nam và chuẩn bị cho quá trình hình thành nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, khởi đầu của nhà nước và dân tộc Việt Nam ngày nay.
2.2. Nền văn hóa Đồng Đậu (cách nay 3.500 – 3.000 năm)
Các di chỉ Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân, huyện Yên Lạc, Tỉnh Vĩnh Phúc được phát hiện vào năm 1962. Đây là nền văn hóa nối tiếp Phùng Nguyên, có đời sống tiến bộ hơn, xuất hiện từ 1.500 đến 1.000 năm tr CN. Đặc tính của nền văn hóa Đồng Đậu là kỹ nghệ luyện kim và chế tạo đồ đồng thau, chẳng hạn mũi tên, mũi nhọn bằng đồng thau đẹp và cân đối (3 và 5), được gọi là “trung kỳ đồ đồng”. Ở hầu hết các di tích Đồng Đậu như Đồng Đậu, Đồng Dền, Đông Lâm, Đồi Đá đều tìm thấy khuôn đúc và nồi rót đồng. Rìu đồng cũng khá phổ biến được xếp làm 3 loại: rìu hình chữ nhựt, rìu có vai và rìu có lưỡi hơi lệch. Ngoài ra, còn tìm thấy giáo đồng, mũi tên, lưỡi câu đồng, dũa đồng, búa đồng (Hình 3 và 4); trong khi các nhà khảo cổ còn tìm thấy công cụ đồ đá chiếm vị trí đáng kể: rìu đá, đục bằng đá, giáo đá, lao đá và các di vật đá dùng trong trang điểm: vòng tay, khuyên tai, hạt chuỗi.
Kỹ thuật luyện đúc đồng đã tiến bộ vượt bực, cung cấp các dụng cụ mới hiệu quả hơn như: mũi rìu, giáo, lao, mũi tên, lưỡi câu, so với các dụng cụ bằng đá. Người Đồng Đậu còn dùng đồng thau để chế tạo khuôn đúc đồng, đồ se sợi, chạc gốm và nặn các tượng động vật như tượng bò, tượng gà, tượng rùa… Các tượng này cho biết những con thú đó là nguồn thực phẩm chính cho sự tồn tại và phát triển của cư dân Đồng Đậu.
Đến nền văn hóa Đồng Đậu, các nhà khảo cổ khẳng định cư dân Đồng Đậu là cư dân nông nghiệp, làm ruộng khô, ruộng nước, trồng cây có củ, quả xung quanh nơi cư trú. Ở địa điểm Đồng Đậu, độ sâu 3,40 m, các nhà khảo cổ tìm thấy nhiều than tro và nhiều hạt gạo cháy, có niên đại 3050 ± 100 năm cách ngày nay (Hình 4) (Viện Khảo Cổ Học, 1999); điều đó cho biết lúa gạo là nguồn thức ăn của cư dân Đồng Đậu. Đây là lần đầu tiên tìm thấy dấu vết cây lúa trong thời cổ đại ở Việt Nam. Các nhà khảo cổ còn tìm thấy các hạt lúa có hình dạng khác nhau ở Gò Mun có tuổi carbon cách nay độ 3.120 (±100 năm) (Sakurai, 1987). Ở di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng), họ còn phát hiện nhiều phấn hoa của một giống lúa nước, có niên đại 3.405 ± 50 năm (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000).
Những bào tử phấn hoa, hạt gạo cháy, vỏ trấu được tìm thấy ở các di chỉ Đồng Đậu chứng tỏ có nhiều loài thảo mộc hiện diện, gồm có khoai lang, rau muống, họ Cam (cây trám), họ na (cây na) và họ Hòa Thảo như cây tre, cây lúa (Oryza sativa) thuộc loại lúa nếp và lúa tẻ có hạt bầu và tròn (Trần Đạt và Đinh Văn Thuận, 1984). Một nghiên cứu về hạt gạo cháy ở di chỉ Đồng Đậu đã báo cáo: “10 hạt thon dài thuộc lúa tẻ… một số hạt thuộc dạng bầu dài giống như lúa nếp nương…Ở độ sâu 1,2-1,5 m thấy chủ yếu là hạt thon ngắn cũng thuộc lúa tẻ (?). Trong các lớp này có hạt tròn dài (nếp) và tròn ngắn (di, cút). Trong lớp Đồng Đậu muộn (sâu 1,2-1,0 m) ngoài các hạt thon dài và thon ngắn (tẻ) có hai hạt bầu ngắn, và tròn dài là lúa nếp.” (Đào Thế Tuấn, 1988). Công việc phân loại lúa tẻ, lúa nếp dựa vào quan sát hình dạng dài ngắn, tròn thon không được chính xác lắm, nhứt là các hạt gạo này bị cháy nám. Chẳng hạn, hạt gạo thon dài chưa hẳn là lúa tẻ vì có nhiều loại nếp cũng có hình dáng thon dài.
Ngoài nghề nông nghiệp, họ còn hái lượm và săn bắt, đặc biệt đối với cư dân sống trên các gò đồi cao. Ngoài những xương tìm thấy từ chó, lợn, gà chăn nuôi, họ còn săn bắt các loại thú hoang: trâu, bò, lợn, hươu, nai, voi trên rừng và bắt tôm cua, cá, ốc, rùa… ở những đầm hồ, suối nước chung quanh khu cư trú.
Trong giai đoạn này, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết nhà ở của cư dân, với nhiều nền đất vàng nén chặt, trên đó có những lỗ cột, nhưng những ngôi nhà đơn giản hơn nền văn hóa Đông Sơn sau này, với mái bằng rơm hoặc lá cây, xung quanh có những tấm phên che mưa gió.
Người Đồng Đậu còn biết dệt vải, đan lát, đồ dùng bằng mây, tre, những thảo mộc thiên nhiên phổ biến ở các vùng nhiệt đới. Nghề đan lát của Đồng Đậu rất tinh tế, đều đặn và đẹp. Cách đan cầu kỳ và cân đối để tạo ra các vật dụng chứa đựng ngũ cốc, phơi đồ gốm…(Viện Khảo Cổ Học, 1999).
2.3. Nền văn hóa Gò Mun (cách nay 3.100 – 2.800 năm)
Di tích Gò Mun được tìm thấy ở xã Tứ Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ vào năm 1961. Nền văn hóa Gò Mun ra đời sau nền văn hóa Đồng Đậu và trước nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng sau này. Những di tích thuộc văn hóa Gò Mun được phân bố ở trên đồi, gò thấp gần sông suối, đầm hồ. Dấu vết nền nhà trên đất vàng, nện chặt, dày độ 0,20 cm và những hố đất đen ăn sâu xuống, chứng minh cư dân sống trong những ngôi nhà thấp như từng thấy trong nền văn hóa Đồng Đậu, với mái lá hoặc rơm và xung quanh có phên che, đan bằng tre hoặc vách rơm rạ. Một đặc điểm đáng chú ý của nền văn hóa này là cư dân sống tập trung vào một số khu vực, có lẽ do dân số gia tăng, khác với cư dân Đồng Đậu và Phùng Nguyên.
Địa tầng văn hóa của Gò Mun dày độ 1 m, màu đen, chứa nhiều di vật, công cụ lao động, thức ăn, nhà cửa đổ nát, nền nhà, nhà bếp, lò, mộ táng. Người ta cũng tìm thấy những hầm, hố đất đen có thể là những hầm ngũ cốc, hố rác bếp…
Đặc tính nổi nhất của Gò Mun là những công cụ và dụng cụ sinh hoạt của người Gò Mun thuộc đồ gốm, đồ đồng và đồ đá với hình dạng, nghệ thuật trang trí đặc biệt có một phong cách riêng của nền văn hóa này và dễ nhận dạng. Đồ gốm Gò Mun có hình dáng bên ngoài đặc biệt là kiểu miệng gốm và cách trang trí hoa văn (khắc vạch, in, đập và đắp nổi).
Về đồ đồng, kỹ thuật đúc luyện, pha trộn nguyên liệu và sáng tạo nhiều hình công cụ như rìu, giáo, lao, mũi tên, mũi nhọn, lưỡi câu, búa, dũa, liềm, tượng người, lục lạc, vòng tay, trâm cài, hoa tai, nhẫn… Cần lưu ý đến liềm đồng dùng để cắt lúa hữu hiệu, và nhanh hơn các lưỡi liềm bằng đá. Nhờ hỗn hợp kim loại tốt, những đồ đồng của Gò Mun tìm thấy được ít bị rỉ sét, bền, ít bị sứt mẻ (Hình 6). Đây là “hậu thời đồ đồng”
Về đồ đá, các công cụ sản xuất và một số đồ dùng vẫn còn quan trọng trong nền văn hóa Gò Mun, như rìu hình tứ giác, rìu có vai, rìu có nấc, đục, bàn mài đủ loại, trong đó có chiếc rìu được khoan lỗ để luồn dây, chì lưới, khuôn để đúc, vòng tay, khuyên tai bằng đá. Người Gò Mun biết áp dụng kỹ thuật cưa, khoan, mài, tiện khá thành thạo.
Cuộc sống của người Gò Mun tiến bộ hơn người văn hóa Phùng Nguyên và Đồng Đậu, có sắc thái riêng biệt vào tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của nền văn hóa Đông Sơn. Đặc tính của nền văn hóa này là cư dân sống tập trung từng khu vực, chủ yếu với nền nông nghiệp lúa nước và lúa rẫy, hiệu năng kinh tế cao hơn nhờ các công cụ sản xuất bằng đồng.
Trong nền văn hóa Gò Mun, người ta phát hiện một hầm ngũ cốc thối nát, chứng tỏ, chủ nhân của hầm này sản xuất lúa không những đủ nuôi gia đình họ, còn dư thừa chứa trong hầm dự trữ (Viện Khảo Cổ Học, 1999). Cư dân Gò Mun đã rành nghề nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa cùng các hoa màu khác ở ven sườn đồi, gò đất thấp chung quanh khu vực cư trú bên bờ các dòng sông, bờ hồ, các đầm lầy với đất phù sa bồi đắp hàng năm. Người Gò Mun trồng lúa theo phương pháp quãng canh trên một diện tích rộng lớn, giống như trồng lúa nổi ở miền Nam, nghĩa là gieo hạt lúa lúc trời bắt đầu mưa, cây lúa lớn dần theo mực nước và thu hoạch lúc lúa chín.
Về chăn nuôi cũng khá tiến bộ để có thêm nguồn thực phẩm. Trong số di vật xương của các loài thú như lợn, gà, chó, trâu, bò, voi… có loại hoang dại và cũng có loại thuần dưỡng. Dù chưa có bằng chứng cư dân dùng trâu bò trong việc làm đất, nhưng cũng có ý kiến cho rằng họ dùng trâu bò để quần thục ruộng nước, kéo gỗ làm nhà…
Tóm lại, trong thời kỳ này nền nông nghiệp chủ yếu dùng cuốc so với thời đại nguyên thủy chủ yếu dùng rìu, bôn. Ngoài nghề lúa rẫy, cư dân đã có nhiều kinh nghiệm trồng lúa nước khi mực nước biển lùi dần. Người dân Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun tiến từ đất cao xuống các thung lũng, đồng bằng và trồng lúa từ đồi núi xuống vùng trũng thấp, ven sông rạch. Họ cũng biết dùng đến trâu bò trong nông nghiệp cách nay khoảng 4.500-3.000 năm; nhưng săn bắt hái lượm vẫn còn phổ biến với các công cụ sản xuất và thu hoạch bằng đá hoặc bằng đồng.
Sự tiến hóa từ nền nông nghiệp sơ khai phát hiện trong văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn với các bộ lạc trồng lúa, đã hiện rõ nét sinh hoạt sống động trồng lúa rẫy và lúa nước trong các nền văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun.
III. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TRỒNG LÚA NƯỚC
Trong thời Cổ Đại cách nay khoảng 4.000 năm, nghề trồng lúa nước ngày càng bành trướng lớn mạnh, có thể chia làm 2 giai đoạn: thời kỳ tiền bán và hậu bán thời đại Hùng Vương. Trong nửa trước thời đại Hùng Vương, người Văn Lang trồng lúa nước sơ kỳ song song với trồng lúa rẫy khi nước biển rút dần; nhưng nghề lúa rẫy vẫn còn chiếm ưu thế. Đến văn hóa Gò Mun, với phát triển công cụ sản xuất đồng thau, nghề trồng lúa nước đã vượt lên ngang hàng hoặc hơn ngành lúa rẫy. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện một hầm lúa thối nát, chứng tỏ chủ nhân sản xuất dư thừa, gia đình cư dân no ấm. Ngành trồng lúa nước càng phát triển đời sống người Văn Lang thêm phồn thịnh sung túc. Nền văn hóa Đông Sơn và văn minh Lúa Nước xuất hiện gần đồng bộ từ đó.
3.1. Nền Văn Hóa Đông Sơn (cách nay 2.800 – 1.800 năm)
Nền văn hóa Đông Sơn là sự tiếp nối với văn hóa Gò Mun và kéo dài khoảng 1.000 năm (Viện Khảo Cổ Học, 1999).
Di tích Đông Sơn được khai quật vào năm 1924 bởi ông L. Pajot. Di tích này thuộc làng Đông Sơn, phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, nằm ở hữu ngạn sông Mã. Nền văn hóa bao gồm các tỉnh miền núi, đồng bằng và ven biển của Miền Bắc đến Quảng Bình, nhưng địa bàn gốc là đồng bằng và trung du Miền Bắc (vùng sông Hồng) và vùng bắc Trung Phần (vùng sông Mã). Nền văn hóa Đông Sơn đã phát triển lâu dài từ thế kỷ VIII-VII tr CN đến thế kỷ I – II sau CN. Các di tích tìm thấy ở nhiều địa điểm, nhưng thường phân bố trên các vùng đất cao, chân đồi, ven sông và ven suối. Tầng văn hóa trung bình dày 0,60-1,00 m. Ngoài các di chỉ cư trú riêng biệt, còn có loại di tích hỗn hợp của cả di chỉ cư trú và khu mộ táng.
Các đặc tính của nền văn hóa Đông Sơn được tìm thấy ở các loại đồ đồng, đồ sắt, đồ đá, đồ thủy tinh, đồ gốm, đồ xương và đồ tre gỗ. Đồ đồng chiếm một số lượng lớn, đặc biệt công cụ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất nông nghiệp lúa.
Đồ đồng: Nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng nhứt là bộ đồ đồng rất phong phú về số lượng, hình dạng, trình độ kỹ thuật chế tạo và năng khiếu thẩm mỹ của người dân. Nhạc cụ của nền văn hóa này nổi bật nhứt là trống đồng và chuông. Trống đồng (Hình 7) là loại di vật điển hình của nền văn hóa Đông Sơn, nay gọi là trống Đông Sơn. Đến nay đã phát hiện khoảng 150 trống lớn và gần 100 trống minh khí ở miền Bắc khu vực văn hóa Đông Sơn và các nơi khác ở Việt Nam như Thừa Thiên – Huế, Gia Rai – Kontum, Quảng Nam – Đà Nẵng, Bình Định, Nha Trang, Bình Dương, Vũng Tàu, Đồng Nai, Kiên Giang… Trống Đông Sơn có địa bàn phân phối rộng không những ở Việt Nam, còn tìm thấy ở nhiều nước Đông Nam Á như: Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và miền nam Trung Quốc, chứng tỏ Việt Nam có giao lưu thương mại khá rộng lớn lúc bấy giờ. Trống đồng được các nhà khảo cổ học phân ra 5 loại A,B,C,D và Đ, căn cứ vào kích thước, dáng cân đối và hoa văn. Ngoài ra, còn vũ khí, công cụ sản xuất và đồ trang sức bằng đồng.
Nhóm công cụ sản xuất bằng đồng thau của văn hóa Đông Sơn khá phong phú, trong đó rìu chiếm một số lượng quan trọng (Hình 7 và 9) (Viện Khảo Cổ Học, 1999).
- Rìu: Đặc điểm chung là rìu có họng để tra cán, gồm có 2 loại rìu cân xứng và rìu không cân xứng: rìu xéo (không cân xứng), rìu hình hia gót tròn, gót vuông, rìu xoè cân, rìu có vai.
- Lưỡi cày đồng tiêu biểu cho ngành nông nghiệp. Cho tới nay có gần 200 hiện vật, gồm có 4 loại: lưỡi cày hình tam giác (còn hiếm), lưỡi cày hình tim (nhiều nhứt chiếm 50%), lưỡi cày hình cánh bướm hay chân vịt và lưỡi cày có vai ngang hay vai nhọn (ít) (Hình 8).
- Cuốc đồng: Chiếc cuốc lớn ở Bãi Phủ (Đông Hà, Thanh Hóa) có kích thước: dài 16,5 cm, rộng 11,7 cm. Kiểu cuốc hình chữ U tùy theo cách lắp cán với lưỡi hình cung hoặc hình tam giác. Kiểu cuốc có vai và phần họng tra cán ăn sâu xuống lưỡi. Kiểu cuốc có họng tra cán, lưỡi gồm có hình tam giác, hoặc lưỡi hình cung.
- Xẻng: công cụ này được phát hiện còn rất ít. Họng xẻng có cấu tạo giống như họng lưỡi cày hình tim. Có xẻng không có họng mà liền với lưỡi thành một khối.
- Nhóm thuổng hay mai thường được xếp vào nhóm rìu có vai cân xứng, nhưng chắc và khoẻ hơn lưỡi rìu, rất thích hợp cho đào đất hay dầm đất.
- Nhóm công cụ thu hoạch: Gồm có lưỡi dao gặt hay còn gọi là nhíp được dùng để gặt lúa.
- Ngoài ra, nhóm công cụ sản xuất còn có nhóm dùi, đục, dũa, lưỡi câu, kim, đinh ba, đinh hai, móc, dao, dao khắc.
Đa số các công cụ sản xuất này cho biết ngành nông nghiệp lúa đã tiến bộ nhiều trong thời đại Đông Sơn. Cư dân Việt đã tích tụ được nhiều kinh nghiệm trồng lúa nước, biết dùng cuốc cày bằng đồng và sắt để nâng hiệu năng sản xuất, biết dùng trâu để thay thế phần nào sức lao động, có nhà kho chứa thóc và biết giã gạo (hoa văn trống đồng) thay vì dùng bàn nghiền vì sản xuất lúa đã quá nhiều.
Ngoài ra, đồ đồng còn là dụng cụ sinh hoạt (thạp, thố, bình, khai, đĩa, chậu…), đồ trang sức (vòng tai, vòng tay, trâm cài, khóa thắt lưng, tượng đồng…), vũ khí (giáo, lao, mũi tên, dao găm), nhạc cụ và tượng đồng.
Đồ sắt trong văn hóa Đông Sơn là công cụ và vũ khí. Công cụ sản xuất gồm lưỡi cuốc chiếm số lượng nhiều nhứt. Lưỡi cuốc là công cụ làm đất, gồm có 2 loại: kiểu lưỡi cuốc có vai, có họng tra cán gần hình chữ nhựt, và kiểu cuốc có họng tra cán hình chữ U, lưỡi xoè rộng hình cung. Ngoài ra, còn có rìu để chặt cây, liềm dùng thu hoạch. Ở Gò ChiềnVậy, mẫu than để xác định niên đại nằm sâu dưới lớp đất có cuốc sắt với niên đại 2.350+100 cách ngày nay (Viện Khảo Cổ Học, 1999)
Đồ đá gồm có hai nhóm công cụ sản xuất và đồ trang sức (vòng tay, vòng tai). Số lượng công cụ sản xuất còn rất ít, chủ yếu rìu (rìu tứ giác và rìu có vai), bôn. Ngoài ra, còn có hòn kê, hòn ghè, cối, chày, bàn mài với các kiểu gần giống như thời kỳ tiền Đông Sơn.
Ngoài ra, còn có đồ thủy tinh được tìm thấy trong các ngôi mộ niên đại muộn, như hạt chuổi màu xanh, vòng tai, vòng tay có màu xanh thẫm; và các đồ gốm như bình, chõ, chậu, bát, chì lưới, dọi xe.
3.2. Nền văn minh lúa nước
Thời đại Hùng Vương khởi sự từ các giai đoạn phát triển sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại sắt, nghĩa là từ thiên kỷ II đến thế kỷ III trước CN (khoảng 4.000-2.258 năm), và là thời kỳ chuyển biến quan trọng để tiến đến nền văn minh cổ xưa và một nước mới thành lập của dân tộc Việt.
Địa lý và tổ chức xã hội sơ lược: Nước Văn Lang của thời đại Hùng Vương gồm có vùng Bắc Việt, bắc Trung Việt và một phần phía nam tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc. Kinh đô đặt ở Phong Châu, tỉnh Phú Thọ ngày trước (Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2000 và Văn Tấn và cộng sự viên, 2008). Nước có 15 bộ (bộ lạc cũ) và có tổ chức xã hội tương đối rõ rệt như Lạc Vương (vua), Lạc Hầu (văn), Lạc Tướng (võ), Quan Lang (con trai vua), Mỵ Nương (con gái vua), Bố Chính (quan lại), ở làng xã có chế độ tù trưởng và mỗi gia đình có chế độ gia tộc, gia trưởng. Người dân gọi là Lạc Dân.
Nghề nông nghiệp lúa: Vào thời đại Hùng Vương, qua nền văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun, nước Văn Lang có 3 loại ruộng: ruộng đất cao hay nương rẫy, ruộng thung lũng và ruộng phù sa ven sông rạch (đồng bằng); trong đó ruộng phù sa ngày càng phổ biến vì cho năng suất cao hơn. Nông dân vẫn tiếp tục làm nương rẫy truyền thống từ thời tiền sử cho đến khi biển lùi, họ từ các ruộng cao theo dòng nước tràn xuống khai thác các thung lũng, đầm lầy có nước quanh năm để trồng lúa. Cư dân dùng phương pháp “thủy nậu” để cấy lúa, nghĩa là họ dùng chân giẫm cỏ xuống bùn trước khi cấy. Lề lối thủy nậu còn được thực hành ở các ruộng biền sâu ở đồng bằng sông Cửu Long dưới thời Pháp thuộc. Sau cùng, họ đến định cư trên các vùng đất cao ven sông rạch, biển và khai phá rừng rậm để trồng trọt sinh sống. Nghề trồng lúa nước phát triển từ đó.
Ngoài ra, cư dân còn canh tác một số hoa màu khác như khoai, đậu, dưa hấu, dâu tầm, trầu cau…, xen kẻ với nghề chăn nuôi, đánh cá, săn bắn, nghề gốm, nghề luyện kim, thủ công nghệ khác…
Ngành nông nghiệp lúa nước tiến bộ nhanh vào thời đại này, mặc dù đòi hỏi nhiều sức lao động so với nghề nương rẫy. Đó là nhờ cư dân Việt sớm biết chăn nuôi, sử dụng sức kéo trâu bò từ nền văn hóa Đa Bút, Phùng Nguyên, có kinh nghiệm về thủy triều lên xuống, về khí hậu hai mùa mưa nắng mỗi năm, và đặc biệt xuất hiện các công cụ sản xuất bằng kim loại.
Nghề trồng lúa nước ngày càng trở nên quan trọng vì lúa nước cho năng suất cao gấp 2,3 lần lúa rẫy, đảm bảo thời kỳ thu hoạch nhiều hơn nhờ yếu tố nước để đáp ứng áp lực dân số gia tăng. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu với nền văn hóa Phùng Nguyên, dụng cụ sản xuất bằng đá vẫn còn chiếm vị thế quan trọng, chứng minh nghề trồng lúa còn thô sơ của người Việt cổ trong những tháng ngày mới lập quốc. Nông dân đã làm quen với trồng lúa theo mực nước sông lên xuống, lúa gạo là thức ăn căn bản của dân tộc Việt bấy giờ. Sự kiện này được thể hiện qua truyền thuyết như sau: “Ban đầu, quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang lang (bột báng), cây soa-đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối (?); lấy dao cày, lấy nước cấy: đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm; gác cây làm nhà để tránh nạn hổ-lang; cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì giã gạo để cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp; trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu dê làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới thương thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.” “Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy làm ruộng”, “…phát nương đổ rẫy. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp”. (Lĩnh Nam Chích Quái, 1960).
Trong sơ kỳ thời đại Hùng Vương, cư dân trồng lúa nước theo lề lối du canh lâu đời của lúa rẫy; nghĩa là họ vẫn dùng phương pháp gieo thẳng và sau ít năm khai thác, họ di chuyển tìm nơi khác trồng trọt vì ruộng đất kém phì nhiêu, như còn thấy bộ lạc Bambara thực hành ở miền Tây Phi Châu (Guinea, Guinea-Bissau, Senegal…) đối với trồng lúa ngập mặn ven biển và sông rạch. Sau nhiều năm kinh nghiệm, họ biết lợi dụng thủy triều lên xuống để đem phù sa vào ruộng lúa và chăm sóc vụ mùa chu đáo hơn; nên không còn thay đổi đất trồng nữa và các thữa ruộng trở nên cố định.
Đến hậu bán thời đại Hùng Vương trong nền văn hóa Đông Sơn, dân tộc Việt phần lớn sống tại những xóm làng ven các thung lũng, dọc theo sông rạch, bờ biển và nghề trồng lúa nước (nếp) trở nên phồn thinh. Họ đã biết sử dụng phương pháp cấy lúa để chủ động trồng trọt sau nhiều năm kinh nghiệm trồng lúa với điều kiện nước lũ và khí hậu gió mùa mỗi năm. Công việc cấy lúa được nói đến trong Lĩnh Nam Chích Quái nêu trên và “Lạc Long Quân dạy dân cày cấy…”, “… lấy dao cày, lấy nước cấy”. Nhà khảo cổ học Maspéro (1918) nghiên cứu tài liệu Trung Quốc cho rằng dân tộc Lạc Việt biết làm lúa hai vụ, biết cấy lúa, làm thủy lợi… trước khi Hán tộc xâm lăng.
Phương pháp cấy lúa có khả năng giúp cho cây lúa có xác suất sinh tồn cao hơn gieo thẳng khi mực nước lên xuống, như từng thấy kinh nghiệm trồng lúa sạ (nổi) và lúa cấy một hoặc hai lần ở đồng bằng sông Cửu Long. Vào thời kỳ này, những kinh nghiệm sống đã giúp cho nông dân hoàn hảo lề lối canh tác để sản xuất lương thực nhiều hơn. Từ cách gieo sạ thẳng nông dân đã chuyển qua phương pháp làm mạ vào đầu mùa mưa để cấy vào ruộng ngập nước, chủ yếu giúp cây lúa cao, lớn có khả năng chịu đựng mực nước sông dâng cao trong khí hậu gió mùa. Do đó, người Việt đã biết cấy lúa vào thời mới dựng nước, cách nay ít nhất 3.000 năm.
Ngành trồng lúa nước đã trở thành chủ lực của nền nông nghiệp bản xứ. Sử Trung Quốc ghi rằng: “Ngày xưa, Giao Chỉ khi chưa chia thành quận, huyện, ruộng đất có ruộng lạc, ruộng đó theo nước triều lên xuống, dân khẩn ruộng mà ăn nên gọi là dân lạc” (Hình 10). Như thế, ruộng lúa đã cố định, được đắp bờ đê ngăn giữ nước trồng lúa. Chuyện cổ tích Sơn Tinh Thủy Tinh vào thời Hùng Vương có thể tượng trưng cho công tác đắp đập đê để ngăn ngừa lụt ở Miền Bắc. An Nam chí lược có ghi chép cư dân Văn Lang “tưới ruộng theo nước triều lên xuống”. Hoặc vết tích một đoạn đê cổ của thành Cổ Loa trước thời Bắc thuộc cho người ta nghĩ rằng người dân tại một số vùng đã biết đắp bờ giữ nước, tháo nước bảo vệ cây lúa để tăng gia sản xuất. Căn cứ vào tư liệu Trung Quốc, nhà khảo cổ học Maspéro (1918) đã xác nhận dân tộc Văn Lang đã có một xã hội phát triển khá cao, họ biết làm lúa nước, làm thủy lợi… trước khi người Hán đến xâm lược.
Vụ lúa: Có lẽ dân tộc Việt vào hậu kỳ thời đại Hùng Vương đã biết trồng lúa 2 vụ mỗi năm khi có được giống “lúa Chiêm” của nước Chiêm Thành, vì giống lúa này có thể trồng bất cứ lúc nào trong năm, nhờ không chịu ảnh hưởng quang cảm (số giờ ánh sáng trong ngày). Mặc dù theo sử Trung Hoa, nước Chiêm Thành mới thành lập năm 192 sau CN, nhưng trước đó vùng đất này là một trong 15 Bộ Tộc của nước Văn Lang, cho nên lúa Chiêm có thể được người Giao Chỉ biết đến truớc CN. Vụ Chiêm được trồng từ tháng 11 đến tháng giêng, gặt tháng 5; trong khi lúa Mùa trồng tháng 6 gặt tháng 11. Trong Di vật chí có ghi: “Lúa Giao Chỉ mỗi năm trồng hai lần, về mùa hạ và mùa đông” (Hình 10). Ông Maspéro (1918) và Bùi Huy Đáp (1980) đã ghi nhận dân tộc Việt trồng lúa hai mùa trước CN.
Các loại lúa: Trong thời đại Hùng Vương có ít nhứt 3 loại lúa trồng ở 3 vùng sinh thái khác nhau: lúa rẫy trên đất cao, lúa thung lũng dưới chân đồi núi và lúa đất phù sa ở các đồng bằng. Mỗi loại lúa này có 2 thứ lúa tẻ còn ít phổ biến và lúa nếp rất thông dụng của cư dân từ đồi núi xuống thung lũng và đồng bằng. Theo Lĩnh Nam Chích Quái, vào thời Hùng Vương, “Đất sản xuất nhiều gạo nếp”. Ngoài ra, còn có hai vụ lúa mỗi năm: vụ Chiêm và vụ Mùa, nên mỗi vụ có nhiều giống lúa khác nhau. Do đó, trong cuối thời đại Hùng Vương, Viêt Nam có trên trăm giống lúa được nông dân trồng. Ở di chỉ văn hóa Đồng Đậu, các nhà khảo cổ học tìm được nhiều hạt gạo cháy có hình dáng khác nhau cách nay khoảng 3.000 năm: hình bầu, tròn, dài, thon, thon dài, bầu dài, tròn ngắn… (Đào Thế Tuấn, 1988); cho biết nơi đây cư dân đã trồng nhiều giống lúa khác nhau.
Công cụ sản xuất (Hình 8 và 9, xem thêm nền văn hóa Đông Sơn): Đến đầu thiên kỷ II trước CN, công cụ đá, chủ yếu rìu đá vẫn còn phổ biến rộng rãi trong nền văn hóa Phùng Nguyên dù kỹ thuật luyện kim đã bắt đầu. Đến giai đoạn Đồng Đậu và Gò Mun, các dụng cụ bằng đá được thay thế dần với dụng cụ đồng, thau, rồi công cụ sắt xuất hiện ở hậu kỳ thời đại Hùng Vương. Các chiếc rìu đá, rìu đồng được cư dân sử dụng để chặt cây, làm đất trồng trọt, mặc dù các nơi khác đã dùng cuốc đá từ lâu.
Càng về sau trong hậu kỳ thời đại Hùng Vương, các nhà khảo cổ tìm thấy lưỡi cày đồng (Hình 8) và cuốc, mai thuổng bằng sắt với số lượng lớn, trong khi các công cụ sản xuất bằng đá giảm dần. Các loại cày đồng với lưỡi hình tim và hình cánh bướm thông dụng hơn hết để cày ruộng. Các liềm đồng cũng được tìm thấy với số lượng khá lớn dùng để gặt lúa.
Chăn nuôi: Cư dân đất Việt đã biết đến nghề chăn nuôi khá lâu. Trong di chỉ Đa Bút (khoảng 6.000-5.000 năm), các nhà khảo cổ tìm thấy xương trâu, lợn và suy đoán cư dân biết thuần dưỡng động vật (Patte 1932 và Vũ Thế Long, 1979). Theo Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn (2000), cư dân Phùng Nguyên đã biết chăn nuôi vì trong các di chỉ và mộ táng có những xương răng chó, lợn, trâu, bò… Điều này chứng minh rằng người Việt biết dùng sức kéo trâu bò để làm ruộng, biết cày cấy trước thời Bắc thuộc chứ không phải như đã ghi trong sử sách Trung Quốc (Hậu Hán Thư và trong Thủy Kinh Chú trong Bùi Thiết, 2000) cũng như các sách sử Việt viết theo tài liệu của Trung Hoa rằng: Thái thú Nhậm Diên dạy dân Cửu Chân cày bừa. Có thể người Trung Hoa đem các chiếc cày, cuốc bằng sắt vào xứ Giao Chỉ và Cửu Chân vào buổi đầu Bắc thuộc (Phạm Văn Sơn, 1960) giúp cho việc làm đất ruộng mau lẹ và cày sâu hơn. Tuy nhiên, dân tộc Việt đã biết sử dụng kim loại sắt vào thời buổi đầu lập quốc, với câu chuyện cổ tích Thánh Gióng vào đời vua Hùng Vương thứ ba, khoảng 700-600 năm trước CN.
Ngoài ra, nghề đánh cá trong các sông rạch, ven biển đã xuất hiện từ nền văn hóa Đa Bút-Quỳnh Văn đến Phùng Nguyên và các nền văn hóa tiếp theo. Các nhà khảo cổ học tìm thấy vỏ sò ốc, xương cá, răng cá, chì lưới, lưỡi câu, mãnh gốm có hình cá… trong nhiều di chỉ khảo cổ khai quật. Trong thời hậu kỳ Hùng Vương, đặc biệt trong nền văn hóa Đông Sơn, nghề đánh cá lớn mạnh hơn, cư dân biết đóng những chiếc ghe, thuyền lớn để đi trên sông, biển, được ghi khắc trên các trống đồng Đông Sơn.
Trong giai đoạn hậu thời kỳ Đồng Thau đến thời đại Đồ Sắt, dân tộc Việt đã nắm vững một số phương pháp canh tác tiến bộ của ngành làm ruộng nước và làm nương rẫy, nhằm khai thác đồng bằng sông Hồng, sông Mã và sông Cả ở Bắc Việt và Trung Việt. Đồng thời cư dân ở Miền Đông Nam Bộ cũng biết trồng lúa rẫy trên đất cao và lúa nước ở đất thấp để sinh sống trong nền nông nghiệp dùng cuốc. Hoạt động săn bắt và hái lượm vẫn còn hiện diện, nhưng đã trở thành thứ yếu, chỉ còn thấy ở các vùng đồi núi, rừng sâu.
Một cách tổng thể, trong thời đại Hùng Vương ngành sản xuất lúa gạo nước Văn Lang có 5 hiện tượng biến đổi lớn xảy ra, đẫn đến nền văn minh lúa nước một thời rực rỡ, như sau:
- Nền nông nghiệp dùng rìu trong thời tiền sử được chuyển qua nông nghiệp dùng cuốc cày;
- Công cụ sản xuất bằng đồ đá mài chuyển qua công cụ sản xuất bằng đồng, thau và sắt;
- Từ nghề làm nương rẫy du canh chuyển qua nghề trồng lúa nước cố định;
- Từ trồng lúa gieo thẳng trong thời tiền sử chuyển qua cấy lúa trong thời đại Hùng Vương. (Bây giờ ngược lại, từ cấy lúa chuyển qua gieo thẳng); và
- Cư dân di chuyển từ những vùng đất cao thưa thớt xuống sống tập trung làng ấp ở các thung lũng và nhứt là đồng bằng do hiện tượng biển thoái cuối cùng.
Sau đây là bảng tóm lược hoạt động sản xuất lúa rẫy và lúa nước trong thời đại Hùng Vương (Bảng 1):
Bảng 1: Hoạt động sản xuất của ngành trồng lúa rẫy và lúa nước trong thời đại Hùng Vương
Hoạt động sản xuất Vụ lúa | Lúa rẫy | Lúa nước | Dẫn chứng |
Một vụ vào mùa mưa | Một vụ Mùa vào mùa mưa. Vào đầu CN có thêm vụ Chiêm (hay Đông- xuân) | – Di Vật Chí– Maspéro, 1918 | |
Loại lúa | Lúa nếp | Lúa nếp chính và lúa tẻ còn ít | Truyện cổ tích Bánh chưng Bánh dày, Hùng Vương thứ 6 (khoảng 2.500 năm) |
Làm đất | Chặt cây nhỏ, đốt cây (“đao canh hỏa chủng”) | – Đốt cỏ và ngâm ruộng (“hỏa canh thủy nậu”), giẫm chân chôn cỏ;– Cày do trâu kéo hoặc sức người | – Trong Bùi Huy Đáp (1980)– Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000)
– Viện Khảo Cổ Học (1998) |
Gieo hạt | Chọc lỗ, gieo hạt và lắp đất | -Gieo hạt khi có vàiđám mưa đầu mùa (gieo thẳng)
– Làm nương mạ cho lúa cấy |
– Lĩnh Nam Chích Quái– Maspéro, 1918 |
Cấy | Không | Nhổ cây lúa ở nơi gieo sớm đem cấy vào nơi có nước sâu hơn do nước mưa hoặc do nước dâng lên từ sông rạch. Lúa cấy một hoặc hai, ba lần, nhằm giúp cây lúa chịu đựng nước sâu vào mùa mưa. | – Lĩnh Nam Chích Quái– Maspéro, 1918 |
Chăm sóc | Không hoặc ít khi | Nhổ cỏ khi cần | |
Dùng phân | Nhờ mức phì nhiêu đất đai; do đó mỗi vài ba năm canh tác cư dân tìm đất mới để trồng (du canh) | – Để gốc mạ thối thành phân– Đem nước phù sa sông vào ruộng
– Phân tằm, phân bắc, phân trâu, nếu có |
– Trong Bùi Huy Đáp (1980)– Văn Tân et al, 2008
– Trong Bùi Huy Đáp (1980) |
Tưới nước | Nhờ nước trời | – Đắp bờ, đê, đập, đào mương đẫn nước ở những nơi có thể làm. | – Thủy Kinh Chú– Bùi Huy Đáp (1980)
– Văn Tân et al, 2008 – Maspéro, 1918 |
Thuhoạch | Bằng tay, nhiếp, dao, lưỡi liềm đá, đồng | Dao hái, nhíp, lưỡi liềm đồng, sắt | Viện khảo cổ học (1999) |
Tồn trữ | Kho chứa, bồ lúa | Kho chứa, bồ lúa | Hoa văn trống đồng Đông Sơn |
Biến chế lúa gạo, nếp | Cối và chày, bàn nghiền đá | Cối và chày | Hoa văn trống đồng Đông Sơn (Hình 11) |
– Nấu cơm bằng ống tre– Làm bánh chưng, bánh dày
– Nấu rượu |
– Nấu cơm, xôi bằng nồi– Làm bánh chưng, bánh dày
– Nấu rượu |
– Lĩnh Nam Chích Quái– Truyện cổ tích Bánh chưng Bánh dày, Hùng Vương thứ 6
– Lĩnh Nam Chích Quái |
IV. THỬ ƯỚC TÍNH NĂNG SUẤT VÀ DIỆN TÍCH TRỒNG LÚA THỜI CẬN CÔNG NGUYÊN
Đây chỉ là những ước tính sơ khởi để có được khái niệm về tình trạng trồng lúa trên đất Lạc Việt vào khoảng một vài thế kỷ trước và sau CN, dựa vào các con số ghi nhận trong các sử sách và kiến thức trồng lúa hiện nay. Dĩ nhiên, các số liệu ước tính sau đây cần được điều chỉnh lại với các thông tin phát hiện trong tương lai để được chính xác hơn.
Năng suất: Theo sách Đông Quan Hán Ký (trong Bùi Thiết, 2.000), khoảng thế kỷ thứ II tr. CN, ruộng ở quận Cửu Chân (vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh) có 156 gốc lúa cho 768 bông. Từ đó, chúng ta có thể suy tính năng suất khoảng 465 kg/ha, với giả thuyết như sau: (i) khoảng cách trồng ước độ 40 x 40 cm, (ii) mỗi bông lúa trung bình có 60 hạt và (iii) trọng lượng 1000 hạt là 25 gram2. Năng suất lúa Cửu Chân khoảng 465 kg/ha. Nhưng đất Cửu Chân xấu hơn đồng bằng sông Hồng, nên trong điều kiện bình thường, lúa Giao Chỉ vào buổi đầu Bắc thuộc có năng suất bình quân ước lượng khoảng 0,543 t/ha hoặc hơn (từ 500 đến 800 kg/ha)?
Diện tích: Theo sách Quảng Đông Tân Ngữ (trong Bùi Thiết, 2000), Giao Chỉ có dân số 746.237 người, vào đời nhà Hán mỗi năm phải nộp thuế đến 13.600.000 hộc lúa (1 hộc lúa = 10 đấu, 1 đấu gần bằng 1kg). Từ đó, có thể suy tính như sau: Vì chế độ cai trị hà khắc, bóc lột của người Hán, thuế khóa rất nặng độ 70 – 80% số lượng sản xuất của dân Giao Chỉ, với 2 vụ lúa mỗi năm: vụ tháng 5 và vụ tháng 10 âm lịch. Cho nên, sản lượng thu hoạch của họ có thể ước tính độ 16.320.000 hộc lúa hay độ 163.200.000 kg lúa. Nếu năng suất bình quân độ 540 kg/ha, có thể suy ra dân Giao Chỉ lúc bấy giờ trồng 326.400 ha mỗi năm (2 vụ) hay diện tích đất ruộng độ 151.000 ha hoặc ít hơn (tùy theo năng suất)? Lúc bấy giờ, Giao Chỉ có 94.400 hộ, nên mỗi hộ có độ 1,6 ha.
V. KẾT LUẬN
Tóm lại, ngành trồng lúa Việt Nam đã tiến hóa lâu dài, chậm chạp theo trình độ văn minh dân tộc. Từ thời người Vượn cho đến 11.000 năm trước, thời nguyên thủy, con người chỉ biết săn bắt và hái lượm, chủ yếu cây có củ, đậu, cây ăn trái và sò ốc để sinh tồn và sống hòa đồng với thiên nhiên. Cho đến văn hóa Hòa Bình (10.000-8.000 năm), nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện và cư dân bắt đầu hái lượm từng hạt lúa hoang và biết gỡ vỏ lúa để lấy hạt gạo có thêm lương thực. Đến nền văn hóa Bắc Sơn-Đa Bút (6.000-5.000 năm), cư dân đất Việt đã thu thập được nhiều kinh nghiệm trồng lúa để làm thế nào sản xuất nhiều thóc gạo. Họ đã bắt đầu thuần dưỡng cây lúa dại, lấy hạt lúa gieo trồng gần nơi cư trú, thường là rẫy nương hoặc thung lũng, đầm lầy. Các Bộ lạc trồng lúa xuất hiện trong thời kỳ này, đánh dấu sự thay đổi lớn, ảnh hưởng sâu đậm đến nền văn minh cư dân Việt, vì nghề trồng lúa đã mang đến đời sống ổn định. Sau đó sự xuất hiện kim loại như đồng, thau, sắt, gang và nghề luyện kim đã cung cấp cho nghề nông chủ yếu ngành trồng lúa các phương tiện sản xuất tinh xảo làm tăng sản xuất lương thực; tạo ra nền văn minh lúa nước rực rỡ và nền văn hóa Đông Sơn sáng ngời trong thời đại Hùng Vương.
Thời Đại Hùng Vương
(4.000-2.258 năm cách ngày nay)
Do thành tựu khảo cổ học, thời đại Hùng Vương khởi sự từ sơ kỳ thời đại Đồng Thau đến sơ kỳ thời đại Sắt cách nay khoảng 4.000 đến 2.258 năm, và là thời kỳ chuyển biến quan trọng để hình thành một nền văn minh xưa và một nước cổ sơ của người Văn Lang. Tuy nhiên, lịch sử đến nay chỉ ghi thời đại này có 18 đời Vua mà thôi (khoảng 700 năm tr. CN). Kinh đô đặt ở Phong Châu, tỉnh Phú Thọ ngày trước. Ngưòi Việt cổ của thời Hùng Vương có nguồn gốc đa tộc, mà hạt nhân của cộng đồng là người Tày cổ với sự tham gia của các nhóm tộc khác như Malayô, Môn-Khmer…(Viện Khảo cổ học, 1999 và 2002).
Địa lý và xã hội: Nước Văn Lang của các đời vua Hùng gồm có vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ của nước ta ngày nay và một phần phía nam của Quảng Đông và Quảng Tây thuộc Trung Quốc và có 15 bộ tộc (Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 2.000):
- Văn Lang (Bạch Hạt, Vĩnh Yên),
- Châu Diên (Sơn Tây),
- Phúc Lộc (Sơn Tây),
- Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang),
- Vũ Định (Thái Nguyên, Cao Bằng),
- Vũ Ninh (Bắc Ninh),
- Lục Hải (Lạng Sơn),
- Ninh Hải (Quảng Yên),
- Dương Tuyền (Hải Dương),
- Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình),
- Cửu Chân (Thanh Hóa),
- Hoài Hoan (Nghệ An),
- Cửu Dương (Hà Tỉnh),
- Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị),
- Bình Văn (?).
Đời sống kinh tế và văn hóa của dân tộc Lạc Việt vào thời Hùng Vương – An Dương Vương được mô tả như sau:
– “Đời sống kinh tế: Hoạt động chính của cư dân là săn bắt và hái lượm, nhưng nghề nông và chài lưới có những bước tiến đáng kể. Nghề nông chính là nghề trồng lúa nước ở các vùng trũng ven sông rạch và lúa rẫy trên đất cao, đồi núi; ngoài ra, họ còn trồng rau củ, trầu cau, dưa hấu (sử tích), khoai đậu, trồng dâu, nuôi tằm. Vua Hùng mỗi năm lên núi khấn vái, cầu trời cho được mùa lúa tốt; núi này về sau gọi là núi Hùng thuộc xã Hy Cương, huyện Phong Châu, Vĩnh Phú. Về nghề chài lưới, ngư dân có tục xâm mình để tránh những loài cá dữ như cá sấu, thuồn luồn. Tục lệ này kéo dài đến vua Trần Anh Tông (1293-1314) mớt dứt. Ngoài ra, họ còn có nghề luyện đồng thau, đúc nên những chiếc trống đồng khéo léo, nghề luyện sắt (di tích Gò Chiền Vậy) và nghề gốm.
– Đời sống văn hóa: Cư dân đời Hùng đã sống trên các nhà sàn, nhưng hãy còn thô sơ ở ven đồi, gò cao, chân núi; với nguyên liệu gỗ, tre, nứa, lá. Nhà có mái cong hình thuyền hoặc mái tròn và sàn thấp, đuôi mái sát đến sàn nhà. Cầu thang lên đặt trước nhà. Đầu tóc cắt ngắn ngang vai hay búi tóc lên đầu, chít khăn búi tóc cho nữ, hoặc búi đuôi sam và có vành khăn nằm ngang trán cho phụ nữ. Cách ăn mặc có sự khác biệt giữa nam và nữ. Nữ mặc váy, thân để trần, đi chân đất. Nam ở trần, mặc khố, đi chân đất. Trang phục lễ cho cả nam và nữ gồm có váy kết bằng lá hay lông vũ. Mũ kết bằng lông chim có cắm thêm bông lau ở phía trên hay phía trước (di tích trên trống đồng). Đồ trang sức của cả nam lẫn nữ gồm có vòng đeo tai, nhẫn, hạt chuỗi, vòng đeo tay.
Về thời đại Hùng Vương – An Dương Vương có rất nhiều truyền thuyết thần thoại được truyền miệng trong dân gian từ đời này đến đời khác mãi đến ngày nay, giúp cho ta hình dung phần nào đời sống của dân Lạc Việt. Đó là truyện Trầu Cau về tục lệ ăn trầu.
Truyện Bánh Chưng Bánh Dày giải thích quan niệm trời tròn đất vuông cùng lễ lộc cúng tổ tiên vào ngày Tết. Truyện An Tiêm cho thấy con người biết trồng trọt. Truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh cho thấy con người phải sống vất vả với nước lụt hàng năm ở quanh núi, nơi họ sinh sống và biết đắp đê đập. Mối tình thơ mộng của Tiên Dung và Chử Đồng Tử được thể hiện bằng hình ảnh đầm Dạ Trạch và bãi Tự Nhiên. Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng nói lên tinh thần yêu nước của người dân khi có ngoại xâm và dân Lạc Việt biết sản xuất đồ sắt.”
Chú thích:
- Thời kỳ Băng Giá cực đại cách nay 20.000-18.000 năm, sau đó băng tan cho đến nay, và Tiểu Hạn khô lạnh xảy ra cách nay từ 13.000 đến 11.500 năm.
- Với giả thuyết trên, 156 gốc lúa có 768 gié, 46.080 hạt, nặng 1152 gram, được trồng trên 24,76 m2 (hay 63.001 gốc/ha = 251×251). Cho nên, năng suất của lúa Cửu Chân là (1152 : 24,76) x 10.000 m2 = 465.267 gram hay kg/ha.
- Căn cứ thông tin năng suất ĐBSH hơn Miền Trung năm 2008 là 16%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Bùi Huy Đáp. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.
- Bùi Huy Đáp. Một số vấn đề về cây lúa. NXB Nông ghiệp, Hà Nội, 154 tr.
- Bùi Thiết. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, 463 tr.
- Chang, T.T. Crop history and genetic conservation: Rice – A case study. Iowa State Journal of Research 59(4): 425-455.
- Colani, M. Découverte du paléolithique dans la province de Hoabinh, L’Anthropolopie, vol XXVI, Paris, France.
- Colani, 1930. Quelques stations Hoabinhiennes. Bulletin de l’École française de l’Orient extrême (BEFE), XXIX, Hanoi.
- Diệp Đình Hòa, 1978. Người Việt cổ Phương Nam ở vào buổi bình minh của thời dựng nước, Khảo Cổ Học, số 1, tr. 61-69.
- Đào Thế Tuấn. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.
- Higham, C. F. W. Rice cultivation and the growth of Southeast Asian civilization. Endeavour 13: 82-8.
- Hoàng Xuân Chính, Nguyễn Khắc Sửu, và Phan Quang Sơn. Khai quật địa điểm hậu kỳ đá mới Cầu Sắt (Đồng Nai). Trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1977. Viện Khảo Cổ Học, Nhà in Diên Hồng, Hà Nội, tr. 82-84.
- Khush, G. Origin, dispersal, cultivation and variation of rice. Plant Mo. Biol. 35:25-34.
- Lĩnh Nam Chích Quái. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.
- Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận và Trần Đạt, 1980. Phân tích bào tử phấn hoa ở Cồn Cổ Ngựa (Thanh Hóa). Những phát hiện mới (NPHM), Viện Khảo Cổ Học 1980.
- Nguyễn Địch Dỹ và Đinh Văn Thuận. 1981. Kết quả phân tích bào tử phấn hoa ở Hạ Sơn, Phiêng Tung, Nà Khù. Thần Sa- những di tích của con người thời đại đá. Bắc Thái 1981.
- Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 000. Lịch sử Việt Nam – Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
- Nguyễn Sinh (BBC News), 2007. Con người cổ đại biết trồng trọt khi nào?
- Nguyễn Trung Chiến. Văn Hóa Quỳnh Văn. Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Quỳnh. Các bức ảnh về khảo cổ, Viện Khoa Học Nông Nghiệp Việt Nam.
- Patte, E. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hóa, Indochine). Bulletin du Service Géologique d’Indochine (BSGI), vol. XIX, pt.3.
- Phạm Đức Mạnh, 1997. Tiền sử và sơ sử Đông Nam Bộ (Việt Nam) – Những nhận thức quá khứ và hiện đại. Trong Một số vấn đề khảo cổ học ở Miền Nam Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, tr 242-292.
- Phạm Văn Thích và Hà Văn Tấn. Phân tích chì trong di vật đồng trong thời đại đồng thau và thời đại sắt sớm. Khảo Cổ Học, số 7-8, tr.126-129.
- Sakurai, Y. 1987. Reclamation history at the Song Coi (Tonkin) delta of Vietnam. In Watanabe T. Edition “History of Asian Rice”, Shogakukan, Tokyo: 235-276.
- Solheim II, W.G. Two pottery traditions of late prehistoric times in Southeast Asia. Historical Archeological and Linguistic Studies on Southern China, Southeast Asia and the Hong Kong region. Ed. F. S. Drake. Hong Kong University Press, Hong Kong 1967, p. 15-22.
- Solheim II, W. 1971. New light on a forgotten past. National Geographic, Vol. 139, No. 3.
- Trần Đạt và Đinh Văn Thuận. Phân tích bào tử phấn hoa ở di chỉ Đồng Đậu (Vĩnh Phú). NPHM Viện Khảo Cổ Học, 1984: 91-93.
- Trần Đạt. Nhìn lại các kết quả phân tích bào tử phấn hoa trong nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam. Khảo Cổ Học, số 4-1987: 61-68.
- Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia.1998. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tập I (Quốc sử quán triều Nguyễn). NXB Giáo Dục, 1.207 trang.
- Viện Khảo Cổ Học. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.
- Viện Khảo Cổ Học. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời Đại Kim Khí Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 551 trang.
- Viện Thành Tựu Khoa Học Xã Hội. Thành tựu khảo cổ học Việt Nam, tr. 40-41.
- Vũ Thế Long. 1979. Di tích động vật ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa). NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1979.
- Vũ Thế Long. Người Hòa Bình và thế giới động vật. Khảo Cổ Học, số 1, 2-1984.
- Bùi Huy Đáp. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.
- Bùi Huy Đáp. Một số vấn đề về cây lúa. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 154 tr.
- Bùi Thiết. Việt Nam Thời Cổ Xưa. NXB Thanh Niên, T.P. Hồ Chí Minh, 463 tr.
- Đào Thế Tuấn. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.
- Lĩnh Nam Chích Quái. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.
- Maspéro, H. Le Royaume de Văn Lang. BEFEO, XVIII, fasc. 3, 1918.
- Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn, 000. Lịch sử Việt Nam – Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
- Patte, E. Le Kjokkenmodding néolithique de Dabut et ses sépultures (province de Thanh Hóa, Indochine). Bulletin du Service Géologique d’Indochine (BSGI), vol. XIX, pt.3.
- Phạm Văn Sơn. 1960. Việt sử toàn thư. NXB Thư Lâm Ấn Quán, Sài Gòn, 738 tr.
- Văn Tấn, Nguyễn Linh, Lê Văn Lang, Nguyễn Đổng Chi và Hoàng Hưng. 2008. Thời Đại Hùng Vương: Lịch sử – văn hóa – kinh tế – chính trị – xã hội. NXB Văn Học, 275
- Viện Khảo Cổ Học. Khảo cổ học Việt Nam, Tập I: Thời đại đá Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 457 tr.
- Viện Khảo Cổ Học. Khảo cổ học Việt Nam, Tập II: Thời đại kim khí Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 551 tr.
- Viện Khảo Cổ Học. Khảo cổ học Việt Nam, Tập III: Khảo cổ học lịch sử Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 519 tr.
- Vũ Thế Long. 1979. Di tích động vật ở di chỉ Đa Bút (Thanh Hóa). NPHM, Viện Khảo Cổ Học 1979.