Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Tiền thưởng đời vua Minh Mệnh (1820-1840)

Đời vua Minh Mệnh cũng đúc các loại thoi bạc, mặt tiền đúc bốn chữ Minh Mệnh niên tạo (Tạo tác trong niên hiệu Minh Mệnh), lưng tiền đúc nổi 4 chữ Quan ngân nhất tiền (Bạc quan 1 tiền) và loại Quan ngân tứ tiền (Bạc quan 4 tiền).

Đời vua Minh Mệnh bắt đầu đúc kiểu tiền hình tròn lỗ vuông bằng chất liệu vàng, bạc và đồng rất đa dạng. Mặt trước đúc nổi minh văn gồm 4 chữ Minh Mệnh thông bảo đọc chéo. Mặt sau tùy từng đồng tiền mà chúng ta thấy có trang trí hoa văn cũng như các câu mỹ hiệu 4 hay 8 chữ mang ý nghĩa là những điều chúc tốt đẹp, an bình, chúc phúc cho nhà vua và muôn dân…

Chẳng hạn như đồng tiền có số LSb.35437 bằng bạc có đường kính 2,5cm mặt trước đúc nổi niên hiệu Minh Mệnh thông bảo đọc chéo, mặt sau lại để trơn (Ảnh 5). Hay như đồng tiền có số hiệu LSb.34836 bằng vàng có đường kính 3,2cm, mặt trước đúc nổi niên hiệu Minh Mệnh thông bảo đọc chéo, mặt sau là câu mỹ hiệu gồm 4 chữ: Phú Thọ đa nam (Giàu có, sống lâu, nhiều con trai) (Ảnh 6). Hay như đồng tiền Phi long LSb.39210 bằng bạc có đường kính 4,4cm, mặt trước đúc nổi niên hiệu Minh Mệnh thông bảo đọc chéo, mặt sau trang trí rồng uốn hình chữ S, có viền răng cưa nhọn. Như chúng ta đã thấy trên loại hình tiền thưởng đời Minh Mệnh này có minh văn và họa tiết trang trí rất đa dạng, độc đáo, đôi khi rất gần gũi với đời sống thường nhật.

Vào năm Minh Mệnh 11 (1830) sách Đại Nam thực lục chép rằng “đúc tiền đồng lớn có mỹ hiệu Minh Mệnh thông bảo1 vạn đồng” [16, T5, 64]. “Nhà vua sai Hộ Bộ thị vệ hội đồng với đốc công Vũ khố, chiếu theo chữ hiệu và quy thức đã định mà đúc hiệu 8 chữ gồm 20 loại, hiệu 4 chữ gồm 10 loại. Đến năm Minh Mệnh 18, 1837 nhà nước cho đúc thêm loại tiền mỹ hiệu 100.000 đồng, ngoài chữ hiệu và quy thức đã định có thêm 3 hiệu 8 chữ và 7 hiệu 4 chữ” [21, T5, 18].

Tháng 6 năm Nhâm Thìn, Minh Mệnh 13, 1832 “Đúc kim tiền và ngân tiền phi long, kim tiền 1.000 đồng mỗi đồng nặng 3 phân dùng vàng lá 7 – 8 tuổi. Ngân tiền 20.000 đồng mỗi đồng nặng 7 phân dùng bạc 7 thành [21, T5, 96).

Tiền phi long thập ngũ. Loại tiền này đúc bằng bạc, mặt trước đúc nổi 4 chữ Minh Mệnh thông bảo đọc chéo (Tạo tác trong niên hiệu Minh Mệnh, 1820 – 1840). Lưng tiền đúc nổi hình rồng uốn hình chữ S, phía dưới có 2 chữ “thập ngũ ”. Đây là chữ chỉ năm thứ 15 của niên hiệu Minh Mệnh. Viền mép cả mặt tiền và lưng tiền đều có viền răng cưa nhọn. Đường kính 4,4cm, nặng 20 gram. Sử chép: “Tháng riêng năm Giáp Ngọ, Minh Mệnh thứ 15, 1834 đúc ngân tiền Minh Mệnh phi long. Sai Đường Quan bộ hộ, bộ công và 1 quản lãnh với 1 thị vệ là những người xung làm công việc Nội các thay đổi nhau đến Sở Nội tạo, coi việc đúc tiền” [17, T14, 52].

Tiền phi long thập tứ. Loại tiền này đúc bằng bạc, mặt trước đúc nổi 4 chữ Minh Mệnh thông bảo đọc chéo (Tạo tác trong niên hiệu Minh Mệnh, 1820 – 1840). Lưng tiền đúc nổi hình rồng uốn hình chữ S, phía dưới có 2 chữ “thập tứ”. Đây là chữ chỉ năm thứ 14 của niên hiệu Minh Mệnh. Sử chép:“Tháng 3 năm Quý Tỵ, Minh Mệnh 14, 1833 nhà vua sai bộ hộ, bộ công và Nội các khoa đạo đến Sở Nội tạo hội đồng đôn đốc thợ, theo y mẫu mới, đúc tiền Minh Mệnh phi long” [16, T12, 58].

Trong sưu tập của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia còn thấy loại tiền phi long đời vua Minh Mệnh đúc bằng chất liệu đồng. Tiền tròn lỗ vuông (VN31-1) đường kính 4,2cm, nặng 12gr. Mặt trước đúc nổi 4 chữ Minh Mệnh thông bảo, đọc chéo. Viền xung quanh là hai hình rồng bay. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ Phú Thọ đa nam (Giàu có, sống lâu, nhiều con trai). Viền xung quanh là dây hoa lá.

Tiền thưởng Minh Mệnh thông bảo bằng chất liệu đồng gồm 30 loại, trong đó lưng tiền đúc mỹ tự 4 chữ có 9 loại và mỹ tự 8 chữ có 20 loại như bảng dưới đây.

Thoi bạc, Minh Mệnh niên tạo- Quan ngân tứ tiền.LSb 33301

Thoi bạc, Minh Mệnh niên tạo- Quan ngân tam tiền. LSb 35309

Thoi bạc, Minh Mệnh niên tạo- Quan ngân nhất tiền.LSb 35336

Đồng tiền vàngMinh Mệnh thông bảo. LSb 35437

Đồng tiền vàng, Minh Mệnh thông bảo – Phú Thọ Đa nam. LSb 34836

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Quốc phú binh cường nội an ngoại tĩnh. VN 29-1

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Hiền hiền thân thân lạc lạc lợi lợi. VN 29-4

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Hà lưu thuận quỹ niên cốc phong đăng. VN 29-6

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo -Truy trác kỳ chương kim ngọc kỳ tương. VN 29 – 3

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Hoa phong tam chúc thiên bảo cửu như. VN 29- 7

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Đắc vị đắc lộc đắc danh đắc thọ. VN 31-11

Đồng tiền, Minh Mệnh thông bảo – Ngũ thần thuận phủ thứ tích kỳ ngưng. VN 31-10

Ngắm nhan sắc Hoàng hậu Nam Phương qua ảnh

Hoàng hậu Nam Phương (1914 – 1963) tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan, là vị hoàng hậu cuối cùng của các triều đại phong kiến Việt Nam. Lúc sinh...

40 năm tu Đạo, vì sao Khương Tử Nha vẫn phải hạ phàm ngồi câu cá?

Khương Tử Nha vốn là đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn. 30 tuổi đã lên núi, trải qua quá trình khổ tu 40 năm. Đối với ông, phú quý...

Lý giải Việt sử 4000 năm bằng khoa học

Tóm lược: Bài này đi từ các cứ liệu lịch sử cổ địa chất của vùng đồng bằng Bắc bộ, và suy luận với tư duy khoa học để loại...

Hoàn cảnh ra đời ca khúc Tình Anh Lính Chiến của Nhạc Sĩ Lam Phương

Năm 1958 cũng như bao lớp người trai trẻ khác, nhạc sĩ Lam Phương hăng hái lên đường làm nhập ngũ làm bổn phận của người trai thời loạn. Trong...

Tìm hiểu về nguồn gốc của Phở Việt Nam

Nhân đọc bài Phở Việt Nam trên Văn chương Việt, chúng tôi thử đi tìm cội nguồn của món ăn này trên Internet. Thật bất ngờ, khi gõ từ khóa nguồn gốc...

Lê Lợi – Lê Thái Tổ – Vị anh hùng và cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn

Lê Lợi sinh ngày 10-9-1385 (6-8 năm ất Sửu) tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng...

Lột trần Việt ngữ – Kỳ 14/25 – Sơ Đăng, một dân tộc đầu đàn

Chúng tôi tin rằng người Thượng Việt là gốc tổ của Lạc bộ Trãi và Thượng Nam Dương là gốc tổ của Lạc bộ Mã. Đại danh từ Any đã...

Bình nước ngoan cố của Bồ Tát Quán Âm

Chiếc bình nước của Quán Âm, một bảo vật nơi Thiên giới, luôn được Đức Bồ Tát mang theo bên mình, nhưng chỉ vì xuất hiện tư tâm nên đã...

Trang phục thời kỳ Hùng Vương – Phần 4

PHẦN IV: KHẢO CỨU VỀ HOA VĂN, KỸ THUẬT DỆT VÀ MAY TRANG PHỤC I. Hoạ tiết trang trí trên trang phục và khăn: 1. Các loại hoa văn trang...

Yến lão

"Yến" là tiệc rượu. Nhiều làng có tục yến lão, hàng năm hay hai ba năm một lần, thết tiệc mừng thọ các quan lão. Có thể nói đây là...

Chợ Hà Nội xưa

Chợ xưa đơn sơ, mộc mặc gắn liền đời sống của người dân trên mọi miền đất nước. Đó là nơi giao thương hàng hóa và trao đổi những vật dụng...

Người Minh Hương ở Sài Gòn

Thiên phục khả phong (Hoành phi trong đình Minh hương Gia Thạnh) Trong lịch sử khẩn hoang ở Nam bộ, sự đóng góp của người Minh hương và Hoa từ...

Exit mobile version