Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Trương Vĩnh Ký – Nhà văn hóa lỗi lạc

Nhà bác học Trương Vĩnh Ký là một vì sao sáng của người trí thức Việt Nam. Nhắc đến Trương tiên sinh ai ai cũng biết ông là nhà tiền phong trong việc phát triển chữ Quốc ngữ, và là Chủ nhiệm kiêm chủ bút của tờ Gia Định Báo là tờ báo và cũng là công báo viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên của nước ta. Bên cạnh đó, Trương tiên sinh còn là nhà hành chánh lỗi lạc có nhiều khả năng chuyên môn cùng với nhiều đức tính đáng quý mến của một người cha mẹ của dân (dân chi phụ mẫu) như tinh thần  duy lý, chí công vô tư, thanh liêm trong lúc thi hành nhiệm vụ. Trước khi tìm hiểu Trương tiên sinh trong lãnh vực hành chánh, tôi xin trình bày vắn tắt tiểu sử và sự nghiệp văn hóa của ông để soi sáng một phần nào về con người của ông, một nhà minh triết sống trong thời kỳ mà lịch sử nước ta đã bước vào cơn sóng gió.

1. Tiểu Sử:

Trương Vĩnh Ký sanh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại Cái Mơn, làng Vĩnh Thạnh, tổng Minh Lệ, huyện Tân Minh, hồi đó thuộc tỉnh Vĩnh Long nay thuộc tỉnh Bến Tre. Trương tiên sinh là tín đồ đạo Thiên Chúa, có tên rửa tội là Jean Baptiste, và tên thêm sức là Petrus Ký; tên đầy đủ là Petrus Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký, thường gọi là Petrus Ký. Tiên sinh có tự là Sĩ Tải. Cha là Trương Chánh Thi, làm quan võ dưới triều Minh Mạng và Thiệu Trị. Mẹ là Nguyễn Thị Châu.

Ông có một người chị và một người anh. Mồ côi cha từ lúc lên 3 tuổi: cha ông bị bịnh và mất ở Nam Vang, đang lúc thi hành nhiệm vụ cho triều đình Huế. Mẹ ông tảo tần nuôi con và cho ông đi học chữ nho và đạo lý của Nho giáo với ông thầy đồ ở cùng xóm khi ông lên 5 tuổi. Năm ông lên 9 tuổi, một vị Linh mục, tục gọi là cố Tám, thấy thương tình cảnh mồ côi cha của ông và lại thấy bản chất thông minh của ông nên đã xin ông đem về nuôi nấng và dạy dỗ chữ La Tinh và chữ Quốc ngữ ở chủng viện Cái Nhum (Vĩnh Long). Khi cố Tám chết, một vị Linh mục khác, tục gọi là cố Long, ở bên Pháp qua, được phái đến giáo phận Cái Nhum. Cố Long đem ông lên Nam Vang (Cao Miên) và cho vô trường đạo Pinhalu, lúc ấy ông được 11 tuổi, để tiếp tục học đạo Thiên Chúa, học tiếng La Tinh (1848 – 1852). Ông Hiệu trưởng trường này là một vị Linh mục, tục gọi cố Hòa.

Trường đạo Pinhalu là nơi quy tụ nhiều học sanh ở khắp các xứ Miên, Lào, Thái, Trung Hoa… Chính do sự tiếp xúc với các học sanh từ các nước khác nhau đã làm nẩy nở khả năng thiên phú của ông về ngoại ngữ. Ông là một học sanh xuất sắc, nên khi học hết lớp ở trường Pinhalu thì được cố Long gởi đi học ở trường Giáo Hoàng (Collège constantinien), một trường nhà chung tối cao cho Á Đông (Seminaire Général) ở đảo Pulau Penang, thuộc Malaysia bây giờ, ở ngoài khơi Ấn Độ dương do người Anh cai trị. Lúc ấy ông ước mơ sẽ trở thành một Linh mục. Ông học ở đây từ năm 1852 đến 1858: là tu sanh trau dồi tiếng La Tinh. Ở trường này, ông được tiếp xúc với nhiều bạn học từ khắp nơi đến nên ông có cơ hội học tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Ấn Độ… Ông luôn luôn tìm tòi các nền văn minh và văn hóa của các dân tộc gắn liền với các ngoại ngữ mà ông thông thạo.

Wikipedia

– Năm 1858, mãn khóa học 6 năm, lúc 21 tuổi, ông trở về quê vì mẹ ông đã qua đời rồi. Ngày bước chân trở lại Sài Gòn, ông cảm thấy bầu trời u ám, mẹ ông không còn nữa. Chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ở Tourane (Đà Nẵng) ngày 01 tháng 9 năm l858; rồi ở Sài Gòn ngày 17 tháng 2 năm 1859, sau đó đến Gia Định năm 1861. Pháp lần lượt chiếm 3 tỉnh Biên Hoà (1861), Định Tường (1861), Vĩnh Long (1862).

– Năm 1860, Giám Mục Lefèbvre, ở Sài Gòn, tiến cử ông làm thông ngôn cho Pháp, ông thường được cử đi làm thông ngôn trong các cuộc tiếp xúc quan trọng giữa Pháp và triều đình Huế.

– Năm 1861, Petrus Ký lập gia đình, do Linh mục Đoan làm mai. Ông cưới thiếu nữ Vương Thị Thơ, con gái ông Vương Văn Ngươn, thầy thuốc làm chức Hương chủ trong làng Nhơn Giang (Chợ Quán).

– Năm 1863, triều đình Huế cử một phái đoàn qua Pháp để thương lượng việc chuộc lại bằng tiền 3 tỉnh đã mất:

– Hiệp biện Đại học sĩ Phan Thanh Giản: chánh sứ,

– Tả Tham tri Bộ lại Phạm Phú Thứ: phó sứ,

– Trương Vĩnh Ký: thông ngôn.

Phái đoàn rời bến Sài Gòn ngày 14 tháng 7 năm 1863, đến Paris ngày 13 tháng 9 năm 1863, Hoàng đế Napoléon III đã cho phái đoàn vào chầu ở cung điện Tuileries. Hoàng đế Pháp và cả triều thần đều hết sức khen cái tài nói tiếng Pháp rất trôi chảy và thanh tao của ông. Sau khi làm xong phận sự, phái đoàn Phan thanh Giản đã đi chu du nhiều tỉnh của nước Pháp, Tây Ban Nha và Ý Đại Lợi: Alicante, Barcelone, Madrid, Gênes, Florence, Rome. Tại Rome, phái đoàn Việt Nam được Giáo Hoàng Pio Nono IX tiếp kiến trọng thể. Đức Giáo Hoàng Pio Nono IX trị vì tại toà Thánh Vatican từ năm 1846 đến 1878. Ngài là một trong những vị Giáo Hoàng đã có thời gian trị vì lâu nhất ở Toà Thánh Vatican. Ngài đã triệu tập cộng đồng Vatican I với nhiều cải tổ mới để đẩy mạnh phong trào canh tân Thiên Chúa giáo.

Chuyến công du 8 tháng nầy đã là một sự kiện rất quan trọng đối với cuộc đời của Trương tiên sinh, nhờ tài ăn nói thông thạo tiếng Pháp và các ngoại ngữ khác ở Âu châu, lại thêm vào đó sự lịch thiệp trong cách cư xử mà ông đã kết bạn được nhiều danh nhân, văn hào, khoa học gia ở Paris như Victor Hugo, Ernest Renan, Paul Bert… Petrus Ký đã viết. “Trong dịp đó tôi trở về với tâm hồn sung sướng vô cùng. Thành phố Ba Lê một đô thị uy nghi nhứt hoàn cầu mà tôi có dịp thăm viếng vào năm 1863 và tôi cũng đã gặp gỡ nhiều thân hữu danh tiếng và bác học, nhứt là văn học và khoa học. Khi xa rời những buổi học tập cao quý đó, tôi đã thu thập nhiều kinh nghiệm và nhiều kiến thức.”

Trương Vĩnh Ký và phái đoàn về tới Sài Gòn ngày 18 tháng 3 năm 1864. Trở về Sài Gòn, ông lại tiếp tục làm thông ngôn cho Súy phủ Sài Gòn.

– Từ năm 1864 đến 1868, ông được bổ làm giáo sư và rồi trở thành ông Đốc Học của trường Thông Ngôn (Collège des Interprètes), được thành lập từ ngày 16 tháng 7 năm 1864. Đồng thời ông cũng được bổ làm trợ bút cho tờ công báo đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ là tờ Gia Định Báo từ đầu năm 1868, rồi được Thống Soái Nam Kỳ G. Ohier cử làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút tờ này vào tháng năm 1869.

– Tháng l năm 1871, ông được bổ làm giáo sư trường Sư phạm thuộc địa và được phong chức Huyện.

– Tháng 6 năm 1872, ông được cử làm thông ngôn cho phái bộ Y Pha Nho ra Huế để điều đình với triều đình Huế về việc mở nghị ước giao hảo và buôn bán.

– Năm 1873, Ông được mời dạy Hán văn và Việt văn ở trường Tham Biện Hậu Bổ (Collège des Stagiaires), rồi làm Chánh Đốc học trường này vào năm 1875. Petrus Ký đã hưởng được danh vị “Khuê Bài Dũng Sĩ Cứu Thế” vào tháng 10 năm 1868 và làm hội viên của nhiều hội đoàn ở Pháp như Hội Nhân Văn Khoa Học vùng Tây Nam nước Pháp, Hội Nhân Chủng Học, Hội Giáo Dục, Hội Á Châu, Hội Địa Lý Paris.

– Năm 1874, một danh dự lớn lao đã đem đến cho “người thầy giáo xuất chúng của đất Nam Kỳ” (Le maître très brilliant de la Cochin chine) là việc Ông được đề cử vào cuộc chọn lựa “Toàn Cầu Bác Học Danh Gia”, Petrus Ký đã được đoạt giải và đứng vào hạng thứ 17 trong số 18 văn hào thế giới: “Thế Giới Thập Bát Văn Hào”, đó là một phần thưởng xứng đáng cho sự nghiệp trước tác và sáng tác của Ông.

Hoàn cảnh lịch sử nước ta biến chuyển mãnh liệt: đất Nam Kỳ lần lượt lọt vào tay người Pháp, tháng 2 năm 1861, Đô đốc Charner chiếm đồn Chí Hòa rồi tiến chiếm Tây Ninh, Mỹ Tho… đến tháng 6 năm 1867, Đô Đốc De Lagrandière chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây; Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ở đất Bắc Kỳ, vào tháng l l năm 1873 Thiếu tá Francis Garnier tấn công thành Hà Nội và mở đầu cuộc xâm lăng Bắc Kỳ. Hà Nội thất thủ. Rồi Pháp tiến chiếm các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định.

– Năm 1878 (Ất Hợi), Ông được Thống Đốc Duperré cử ra Bắc Kỳ trong 3 tháng để nghiên cứu về tình hình chính trị vào lúc bấy giờ. Ông vừa làm công việc nghiên cứu cho Súy phủ Pháp ở Sài Gòn, và nhân cơ hội đó Ông vừa đi thăm viếng các di tích lịch sử và tìm hiểu thêm về đời sống của người dân xứ Bắc để viết tập hồi ký: “Chuyến Đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi”. Trở về Sài Gòn, nhân lúc chính quyền Pháp tổ chức Xã Tây (Municipalité Francaise), Ông được đề cử làm hội viên của Hội đồng thành phố này, rồi được cử làm hội viên Hồi đồng học chánh thuộc địa, và được bổ làm Officier d’Académie năm 1883, với chức vị mới này, Ông đã có những đề nghị hữu ích và được chấp thuận:

– Việc bắt các quan hậu bổ người Pháp học tiếng Annam.
– Việc dạy tiếng Pháp cho học trò nhỏ Annam.
– Việc cấp học bổng và cho thanh niên du học ở bên Pháp.

Trương tiên sinh đã bắt đầu sự nghiệp viết lách từ năm 1863 về các loại ngữ pháp, lịch sử, hồi ký… , đến năm 1882, có một sự chuyển hướng: Ông viết về các loại tùy bút, triết học, dịch các bài văn Annam, và Trung hoa ra chữ Quốc ngữ, phê bình sách. Chúng tôi sẽ liệt kê sự nghiệp trước tác và sáng tác của Ông trong 30 năm ở phần sau này.

– Năm 1881, con ông là Félix Trương Vĩnh Ký chết lúc mới lên 3 tuổi.

– Năm 1882, lại một người con nữa tên Trương Vĩnh Tiên chết.

– Ngày 5 tháng 7 năm 1885, kinh đô Huế thất thủ, cả nước Việt Nam đã lọt vào tay người Pháp.

– Tháng l năm 1886, Paul Bert, bác sĩ y khoa, tiến sĩ khoa học, hội viên hội Hàn lâm khoa học, giáo sư trường đại học Bordeaux rồi Paris, Bộ Trưởng bộ Giáo Dục, được cử làm toàn quyền xứ Annam và Bắc Kỳ. Paul Bert đã biết năng lực học thức của Petrus Ký nhân khi phái đoàn Phan Thanh Giản đến Paris hồi năm 1863, cho nên, khi Paul Bert đến Sài gòn tháng 2 năm 1886, ông đã đến thăm Trương Vĩnh Ký. Tháng 4 năm 1886, Paul Bert ra Hà Nội. Paul Bert đã trọng dụng và cử Petrus Ký làm việc bên cạnh triều đình Huế vào tháng 4 năm 1886. Nhân đó Ông dạy Pháp văn cho vua Đồng Khánh và được vua phong làm Hàn Lâm Viện Thị Giản Học sĩ. Ở Huế vài tháng thì Ông bị bệnh phổi nên xin trở về Sài Gòn dưỡng bịnh vào tháng 8 năm 1886. Vua Đồng Khánh rất quý tài của Ông nên đã ban biệt hiệu Nam Trung Ẩn Sĩ và tặng nhiều bửu vật và một bài thơ chữ Hán để tỏ lòng lưu luyến, bài thơ nầy đã được Ông Trương Vĩnh Tống, con ông, dịch ra thơ lục bát bằng chữ quốc ngữ. Tháng 11 năm 1886, Paul Bert qua đời, Petrus Ký liền cáo bịnh để xin từ chức quan ở triều đình Huế. Trở về Sài Gòn, Ông tiếp tục làm việc cho Súy phủ Sài Gòn.

– Năm 1887, Liên Hiệp Đông Dương ra đời: Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Cao Miên; tháng 4 năm 1888, ông được cử đi Bangkok để giải quyết vấn đề giữa Thái Lan với các nước Đông Dương.

– Năm 1888, trường Thông Ngôn đóng cửa, ông chỉ đi dạy chữ Hán và tiếng Miên tại trường Hậu Bổ. Từ đây, ông dành nhiều thì giờ cho việc viết văn và in sách và lấy đó làm niềm vui trong những ngày cuối của cuộc đời ông. Năm 1888, Trương tiên sinh tự bỏ tiền túi ra xuất bản tạp chí Thông Loại Khóa Trình với mục đích phổ biến văn hóa dân tộc, đạo lý cổ truyền và có nhiều bài thơ chống chính phủ thuộc địa Pháp của Nguyễn Chánh Chiếu, Nguyễn Tri Phương, Bùi Hữu Nghĩa.

Những ngày cuối đời, Ông bị bịnh hoạn liên miên và sống trong cảnh nghèo túng. Nhưng Ông vẫn tiếp tục say mê viết lách, vẫn tiếp tục xuất bản sách. Càng chăm chú vào việc viết sách, càng khiến Ông bị lao tâm và suy giảm sức khỏe. Càng xuất bản sách, càng làm cho nợ nần chồng chất vì sách bán rất chậm. Lê Thanh trong bài biên khảo về Trương Vĩnh Ký trong “Phổ Thông Chuyên San” số 3, tháng 9 năm 1943 ở Hà Nội có trích dẫn mấy dòng tâm sự của Trương tiên sinh ở trong nhật ký, có mấy chỗ bị mối ăn không còn chữ:
“Bị hai cái khánh tận, nhà in… nơi nhà… mất hơn năm sáu ngàn đồng bạc. Phần thì sách vở bán không chạy, mắc nợ nhà in Rey ét Curiol, phần thì bị… phải bảo lãnh nợ cho nó hết hơi. Lại thêm phát đau hư khí huyết…”

Ngày l tháng 9 năm 1898, Petrus Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký trút hơi thở cuối cùng tại Chợ Quán, Sài gòn, hưởng thọ được 61 tuổi, trước sự luyến thương của rất nhiều người trong nước từ Bắc chí Nam và ở nước ngoài như ở Âu Châu, Miến Điện, Trung Hoa. Ông đã để lại một công trình văn hóa khổng lồ về văn học, chữ quốc ngữ, về một nền học thuật mới cho dân tộc. Sau ngày tiên sinh qua đời, có rất nhiều nhà văn, nhà thơ khóc thương tiên sinh. Tôi xin trích dẫn các bài sau:

Bài văn tế Khóc Thầy Xưa của 3 người học trò của tiên sinh:

Thương thay! Thầy ta là quan lớn
Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký
Nhớ Thầy xưa,
Nên đấng thông minh,
Thiệt trang văn phú;
Sang dường ấy, trọng dường ấy,
Ngó công danh, trong mắt như không!
Kiêu chẳng hề, lẩn chẳng hề,
Xem tánh hạnh trong đời ít có.
Việc chữ nghĩa nhọc lòng biên đặt,
Lắm thuở công phu;
Dạy học hành ra sức vun trồng,
Nhiều lời khuyên dỗ
Ôi!
Tưởng còn lâu hưởng lộc trời
Nay đã sớm lìa cõi thọ
Bướm Trang Sanh một giấc mình cõi chốn vi cơ,
Hạt Đinh Lịnh trăm năm, hồn nương nơi vân vụ.
Người tuy mất mà danh chẳng mất, tiếng hãy còn đây.
Coi sách Thầy mà học ý Thầy, hình như Thầy đó
Hỡi ôi! Tiếc thay! Hỡi ôi! Thương thay!

Môn sanh: Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương, Nguyễn Trọng Quản đẳng đồng bái.
4 tháng 9 năm 1898.

Diệp Văn Cương, sanh tại quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp), hiệu là Yên Sa, được học bổng đi học ở Alger, đậu bằng Tú Tài đôi. Ông là người kế vị ông Trương Vĩnh Ký, sau khi Trương tiên sinh xin từ chức để trở về Sài Gòn. Diệp Văn Cương cưới vợ là bà Công chúa, em ngài Dục Đức. Khi vua Đồng Khánh băng hà, ông Cương tìm cách đưa cháu vợ mình lên ngôi là vua Thành Thái. Năm 1919, ông về dạy Việt văn ở trường trung học Chasseloup Laubat tại Sài Gòn.

Trương Minh Ký tên nguyên thủy là Trương Minh Ngôn sinh năm 1855, tại làng Hạnh Thông, thuộc Bình Trị Hạ, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Ông thuộc dòng dõi của ông Trương Minh Giảng, hiệu Thế Tải, học trò của Ông Trương Vĩnh Ký, là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn hóa có nhiều đóng góp quan trọng trong việc phát triển nền văn học Quốc ngữ Việt Nam.

Nguyễn Trọng Quản quê tỉnh Bà Rịa (nay là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) là học trò và cũng là con rể của Trương Vĩnh Ký. Ông cùng Diệp Văn Cương, Trương Minh Ký là những người Việt Nam đầu tiên được đi du học ở Lycée d’Alger (Bắc Phi) của Pháp. Sau khi tốt nghiệp, ông về nước làm giáo viên rồi làm giám đốc các trường Sơ học vào những năm 1890-1900 ở Sài Gòn. Ngoài một nhà giáo, nhà văn, Nguyễn Trọng Quản còn là người có khả năng hội hoạ; chính ông đã vẽ các tranh minh hoạ trong tiểu thuyết Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản, xuất bản năm 1910 ở Sài Gòn. Ông mất năm Tân Hợi (1911) tại Sài Gòn, hưởng dương 46 tuổi.

Bài điếu từ của M. Picanon, Thống Đốc Nam Kỳ, do Trúc Viên Đặng Thúc Liêng dịch có đoạn như sau:

“Vì quan Toàn quyền, vì thuộc địa và lại vì tôi đứng giữa đây đặng tỏ lời từ giã một vĩ nhân, là giáo sư kiến thức… (…) Tôi xin tỏ cùng bửu quyến của tiên sanh cái tấm lòng thành thật của tôi, và xin tỏ ý rằng những người giúp việc cho chánh phủ thảy đều đau đớn, yêu mến tiên sanh như tôi vậy. Từ này về sau Trương tiên sanh đã bỏ trống cái ngôi dạy tiếng Á Đông đi rồi! Ngày sau có ai mà xứng đáng lãnh cái chức trách ấy nữa? Chắc tiên sanh cũng đem theo vào mồ nhiều sự mến yêu của các người đã từng quen thuộc với tiên sanh, đã biết tiên sanh là nhà đạo đức văn chương. Trương tiên sanh ôi! Từ đây vĩnh biệt, hết trông gặp mặt nhau rồi.”

2. Sự nghiệp trước tác và sáng tác của Petrus Ký

Trong suốt 30 năm sáng tác và trước tác, Ông đã để lại một công trình văn hóa khổng lồ; trên 120 bài viết và sách.

2.1. Tủ sách gia đình

Tháng 7 năm 1958, Trương Vĩnh Tống, con của Petrus Ký đã đem tặng viện Khảo Cổ Sài Gòn tất cả những tài liệu và sách vở trong thư viện gia đình của thân phụ ông mà ông còn giữ lại. Ông Tống đã kê khai thành 12 loại như sau:

– Địa lý, Sử ký, Ngôn ngữ học, Khoa học;
– Giáo dục, Chính trị, Kinh tế, Nho học, Phật học;
– Văn chương, Văn học sử, Tiểu sử.
Ngoài ra, còn có rất nhiều bản thảo chưa in. Các bản thảo này do chính Trương Vĩnh Ký chép tay, hiện còn tàng trữ tại các nơi sau đây:
(i)     Thư viện Khoa Học Xã Hội Trung Ương ở Hà Nội;
(ii)   Thư Viện Khoa Học Xã Hội tại Sài Gòn, gồm có các bản thảo do Trương Vĩnh Tống đã tặng Viện Khảo Cổ Sài Gòn hồi năm 1958;
(iii)   Nhà thờ chợ Quán ở Sài Gòn.

2.2. Tác phẩm

Chúng ta có thể phân loại các tác phẩm của ông thành các loại chính sau đây:

2.2.1. Các sách dạy ngôn ngữ; hoặc dạy tiếng Pháp cho người Việt, hoặc dạy chữ Hán cho người Việt và người Pháp: Abrégé de Grammarie Annamite (1867), Cours Pratique de Langue Annamite (1868), Cours de Lague Mandarine ou de Caractères Chinois (1875)…, Vocabulaire Annamite Francais (1887), Tam Thiên Tự Giải Âm (1877), Dictionnaire Francais Annamite (1884) …

2.2.2. Các sách giáo khoa mà Ông đã soạn cho Nha Học Chánh Nam Kỳ: quyển Manuel des Écoles Primaires nội dung gồm có: Histoire Annamite, Histoire Chinoise (1870), cuốn này còn được viết bằng chữ quốc ngữ nữa. Các cuốn sách viết bằng tiếng Pháp để dạy về địa lý và sử ký Việt Nam: Petit Cours de Géographie de la Basse Cochinchine (1875), Cours d’histoire Annamite à l’Usage des Écoles de la basse Cochinchine (1875)…

2.2.3. Các bài biên khảo viết bằng tiếng Pháp dành cho các độc giả Việt và Pháp có học thức: Souvenirs Historiques sur Saigon et ses Environs (1883). Flores Annamites (1884)
Études  Comparées des Langues et Écritures des 3 Branches Linguistiques (1894)…

2.2.4. Các sách viết bằng chữ quốc ngữ là những công trình tiền phong về chữ Quốc ngữ trong lịch sử văn học Việt Nam cận đại. Chúng ta có thể phân làm các loại sau đây:

a. Các bản dịch ra chữ Quốc ngữ của các sách viết bằng chữ Hán của các nhà nho: Trung Dung (1875), Mạnh Tử Tập Chú (1875), Sơ Học Vấn Tâm (1877), Đại Học (1877), Tam Tự Kinh Quốc Ngữ Diễn Ca (1884), Minh Tâm Bửu Giám (1893).

b. Các bản diễn âm ra chữ Quốc ngữ các tác phẩm văn Nôm của các nhà nho xưa với những chú giải: Kim Vân Kiều (l 875), Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca (1875), Huấn Nữ Ca (1882), Thơ Dạy Làm Dâu (1883), Gia Huấn Ca (1888), Lục Súc Tranh Công (1887), Phan Trần (1889), Lục Vân Tiên (1889)…

c. Các bài do Ông sáng tác bằng chữ quốc ngữ: Chuyện Đời Xưa (1886), Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi (1876), Gia Định Phong Cảnh Vịnh (1882), Trương Lương Tùng Xích Tòng Tử Du Phú (1881), Trương Lương Hầu Phú (1882), Ngư Tiều Trường Điệu (1882), Cờ Bạc Nha Phiến Diễn Ca (1885)…

Chúng ta thấy trong tủ sách gia đình của ông Trương Vĩnh Ký có cả sách nghiên cứu Phật học nữa như quyển Quan Âm có bút tích của Ông viết bằng chữ Pháp được 2 trang giấy. Trong toàn bộ tác phẩm của Ông, ta không thấy có bài nào viết về đạo Thiên Chúa. Mặc dù Trương Vĩnh Ký là tín đồ Thiên Chúa giáo và Ông đã hấp thụ sự giáo dục ở các trường thầy dòng mà cách giáo dục ở đây không theo truyền thống Á đông, nhưng trong phong cách và tư tưởng của Trương tiên sinh chúng ta thấy Ông quả là một nhà Nho thuần thành, một bậc thâm Nho đáng kính mến. Ông tin tưởng rằng các giá trị tinh thần truyền thống phải được bảo tồn vì các thế giá này đã tạo nên nền đạo lý tốt đẹp trong xã hội ta. Ông đã hô hào cải cách học vấn, thay đổi hình thức giảng dạy và học tập mới bằng cách sử dụng chữ Quốc ngữ dễ học hơn chữ Hán tự và chữ Nôm, có như vậy giáo dục mới có tính đại chúng tức là ai ai cũng có thể học được, trước đây sự học vấn chỉ là đặc ân cho một số người mà thôi.

Trường Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký, thường gọi tắt là trường Petrus Ký, đã được thành lập vào năm 1928 tại Chợ Quán, Saigon. Ngày khai giảng đầu tiên là ngày 01 tháng 10 năm 1928.

Có 2 bài ca được gây hứng khởi từ mái trường này là:  «Học sinh Petrus Ký hành khúc» của Hòa Việt và «Petrus Ký Hành Khúc» của Phạm Mạnh Cương.

*Học sinh Petrus Ký hành khúc:        

Bài ca này do Hòa Việt sáng tác năm 1957, đã được Ông Phan Nhựt Minh, cựu học sinh Petrus Ký 1956 – 1963, sưu tầm. Hòa Việt là một học sinh Petrus Ký vào lúc ông sáng tác ca khúc này. Phan Nhựt Minh đã viết:“Bài “Học sinh Petrus Ký hành khúc” của Hòa Việt từ lời ca đến nét nhạc tràn đầy ý nghĩa và truyền cảm mạnh mẽ, nó làm trổi dậy một cách nồng nhiệt tình tự dân tộc, niềm tự hào giống nòi, tình đoàn kết và lòng yêu nước thiết tha được thể hiện qua chính truyền thống hào hùng của học sinh trường Petrus Ký: “Đoàn học sinh Trương vĩnh Ký xin tuyên thề: Mai đây cùng xây nước nhà Việt Nam, vì Nhân dân, vì Tổ Quốc, hy sinh cho đất nước Lạc Hồng nghìn năm vẻ vang oai hùng”. Do đó, bài ca này đã được Thầy Hoàng Lang, Giáo sư âm nhạc thời đó chọn làm “Hiệu đoàn ca” từ năm 1957 đến 1972″. Năm 1972 , bài ca “Petrus Ký Hành Khúc” của Thầy Phạm Mạnh Cương được Ban Giám Đốc nhà trường chính thức công nhận làm bài “Hiệu đoàn ca” cho trường Petrus Ký và đã thay thế bài ca trước. Có thể đọc bài ca “Học sinh Petrus Ký Hành Khúc” theo địa chỉ của Website sau đây: http://www.petruskylhp.org/hspetruskyhanhkhuc.jpg

*Petrus Ký hành khúc:

Bài ca này do GS Phạm Mạnh Cương sáng tác năm 1972. Có thể đọc bài ca “Petrus Ký hành Khúc” theo địa chỉ của Website sau đây: http://petruskyeastusa.org/wp-content/uploads/2013/06/hanhkhucpky.jpg

3. Petrus Ký: Nhà hành chánh lỗi lạc

Ngoài việc làm thông ngôn, dạy học, viết sách, Trương tiên sinh còn đảm nhận những chức vụ hành chánh trong thời gian hợp tác với Pháp. Trong lúc thi hành nhiệm vụ lúc nào Ông cũng lấy sự an nguy của dân tộc làm ánh sáng soi đường cho việc làm của Ông, Ông luôn luôn ước mong với nhiệm vụ của mình sẽ là một cơ hội để đem lại sự thịnh vượng cho đất nước. Ông đã được đề cử vào chức vụ hành chánh nhiều lần, đặc biệt vào năm 1876, Thống Đốc Duperré cử Ông ra Bắc Kỳ để nghiên cứu tình hình chính trị ở đây. Năm 1886, Toàn quyền Paul Bert cử Ông làm việc bên cạnh triều đình Huế từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1886.

3.l. Gia Định Báo

Tờ công báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, dưới sự quản lý rất giỏi của Trương tiên sinh. Theo Huỳnh Văn Tòng trong quyển “Lịch sử Báo Chí Việt Nam”, Saigon: Trí Đăng 1973; đây là luận án Tiến sĩ đệ tam cấp trình ở Đại học Paris năm 1971; vào năm 1863, Thống Soái Nam Kỳ Lagrandière (nhậm chức từ tháng 5 năm 1863 đến tháng 4 năm 1868) đã cho ra đời tờ báo bằng tiếng Pháp “Le Courier de Saigon”, rồi hai năm sau là ngày 15 tháng 4 năm 1865, ông cho ra đời tờ Gia Định Báo, số l, và bổ nhiệm ông Ernest Potteaux làm chánh tổng tài (tức chủ nhiệm kiêm chủ bút bây giờ) trông nom, Đốc phủ sứ Paulus Huỳnh Tịnh Của đảm nhiệm dịch các nghị định, thông báo của Thống Soái phủ Nam Kỳ từ chữ Pháp ra chữ Việt; lúc này mỗi tháng ra một số vào ngày 15 gồm có 4 trang giấy khổ nhỏ, nội dung toàn là phần công vụ. Nói khác đi, Gia Định Báo chỉ là một tờ công báo thuần túy mà thôi.

Ngày 6 tháng 9 năm 1869, tân Thống soái Nam Kỳ G. Ohier bổ nhậm ông Trương Vĩnh Ký vào chức chánh tổng tài của tờ Gia Định Báo có hưởng lương hàng tháng. Đốc phủ Paulus Của vẫn còn là nhân vật nồng cốt trong ban biên tập, Huỳnh Tịnh Của là tác giả quyển “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” xuất bản vào năm 1895.

Vừa nhận nhiệm vụ chủ nhiệm kiêm chủ bút xong, Trương tiên sinh liền cho cải tổ về hình thức lẫn nội dung của tờ Gia Định Báo ngay.

Về hình thức: mỗi tháng xuất bản 2 kỳ, rồi sau đó tăng lên 4 kỳ, số trang tăng lên đến 16, có khi đến 20; vẫn còn khổ nhỏ.

Về nội dung: được thêm nhiều tiết mục phong phú hơn trước, chia làm 2 phần: Phần công vụ, 4 trang, vẫn tiếp tục đăng các qui định, thông báo của Súy Phủ. Phần tạp vụ, 12 trang có khi 16 trang, đăng các bài thơ, phú, truyền thuyết, tiểu luận về lịch sử, văn hóa.

Trong suốt 4 năm (1869 – 1872) quản trị tờ Gia Định Báo, Trương tiên sinh luôn luôn khuyến khích các công chức Việt Nam viết bài vở hoặc gởi tin tức về cho tờ báo với mục đích tập luyện viết văn bằng chữ quốc ngữ và tập làm báo. Tờ Gia Định Báo được tài trợ bởi Thống Súy Phủ nên được phát không cho các làng, xã và trường học. Tờ Gia Định Báo đã được sự ái mộ của dân chúng, rất nhiều người chỉ mong đợi cho tới kỳ phát báo để lấy báo đem về nhà đọc, có khi họ còn đọc to lên để cho người không biết chữ quốc ngữ cùng nghe. Hồi đó họ gọi tờ báo là tờ nhựt trình.

Bùi Đức Tịnh trong quyển “Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (l865 – 1932)” xuất bản ở Sài Gòn năm l992, trang 37 và 38 đã nhận định:

“Trong chức vụ chánh tổng tài Gia Định Báo, ông đã tìm một phương hướng để thực hiện cuộc duy tân (…). Từ trước và khi bắt đầu Pháp thuộc vẫn tiếp tục theo đà có sẵn, người trí thức chỉ mong thi đỗ để làm quan. Khuyến khích và tạo điều kiện tập tành cho các thầy thông ngôn, ký lục, thầy giáo tập viết báo, viết văn, thật sự Trương Vĩnh Ký đã gây một cuộc Minh Tân nhỏ trong giới văn học trước khi những người chủ trương Nông Cổ Mín Đàm và Lục Tỉnh Tân Văn ‘mở cuộc Minh Tân’ trong lãnh vực kinh tế.”

Tại Bắc Kỳ, từ khi Pháp đặt chân đến đây vào năm 1885, họ đã cho ra hai tờ nhật báo viết bằng tiếng Pháp là tờ Avenir du Tonkin và tờ Courier d’ Haiphong. Năm 1890, tại Hà Nội, Toàn quyền De Lanessan cho phát hành tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo viết bằng chữ Hán để đăng tải các công văn và chỉ dụ của chính phủ thuộc địa, mãi đến năm 1907 tờ này mới có chữ Quốc ngữ bên cạnh phần chữ Hán. Năm 1905, tại Hà Nội, ông Babut, một tư nhân người Pháp, cho ra tờ Đại Việt Tân Báo có một phần chữ Hán và một phần chữ Quốc ngữ và giao cho nhà nho Đào Nguyên Phổ làm chủ bút. Như vậy, sự sinh hoạt văn hóa bằng chữ Quốc ngữ đã xuất hiện ở Nam Kỳ 40 năm trước khi ở Bắc Kỳ. Petrus Ký quả là vị Tổ của làng báo chí bằng chữ Quốc ngữ.

3.2. Petrus Ký: Nhà hành chánh chí công vô tư

Năm 1876 (Ất Hợi), Thống Đốc Duperré cử Ông ra Bắc Kỳ để nghiên cứu tình hình chính trị ở đây trong 3 tháng. Đọc tờ trình này, ta thấy Ông có những nhận định rất sâu sắc và xác thực về tình hình chính trị và xã hội của ta lúc bấy giờ ở đất Bắc; Ông là một nhà hành chánh duy lý (rational) đã không để mọi thiên kiến và sự vị nể về tôn giáo ảnh hưởng vào việc công.
Trong tập du ký “Chuyến đi Bắc năm Ất Hợi”, từ 14 tháng 01 đến l0 tháng 4 năm 1876, có phần ghi lại tờ trình gởi tham mưu trưởng Regnault de Promesnil để chuyển cho Thống đốc Duperré như sau:

Sài Gòn, ngày 28 tháng 4 năm 1876

Thưa Tham mưu trưởng,

Tôi xin gởi đến ông bản báo cáo mà ông cần về tình hình chính trị ở Bắc Kỳ mà tôi vừa đi xem. (bỏ qua phần tường thuật về cuộc hành trình từ Saigon ra đất Bắc). Tôi xin phép được nói thật thà, có sao nói vậy, vả lại tôi cũng phải bảo vệ danh dự của tôi là người được hỏi. Tôi không nói những xích mích dường như đã xảy ra giữa bổn xứ theo đạo, với giáo xứ. Những cái đó tôi không được rõ lắm.

Trước hết tôi nói sự kinh ngạc của tôi đối với cảnh thảm hại hận thù tôn giáo, họ ghét nhau dữ lắm. Và trong những việc vừa xảy ra, nếu những nho sĩ và những người khác bên lương đã làm những tội ác ghê gớm thì sự thật là người bên giáo cũng chẳng vừa gì trong việc báo thù. Khi tôi đến thăm các giáo xứ, tôi có bày tỏ với các ngài nỗi lo sợ của tôi. Tôi cố gắng làm cho họ thấu trước, tai hại đối với giáo dân, gây ra bởi hành vi thiếu suy nghĩ của vài người bên giáo. Tôi còn cho rằng giới giáo sĩ đi quá xa trong quyền lợi của họ, và khư khư đòi đền bồi thiệt hại trước thái độ biết điều của những nhà chức trách bên lương, tôi dám nói rằng họ lắm khi cũng chịu khổ từ phía những người xấu bên đạo. Về điều này tôi chỉ xin kể việc ông Tổng Đốc Nam Định đã nhìn làng mạc nhau rún bị cướp, bị đốt và một số người trong gia đình chết thê thảm bởi hành vi của những người Cơ-rê-chiêng. Thôi cho tôi phủ một tấm vải che lên cảnh thảm khốc của cuộc chiến tranh tôn giáo này.

Còn như cái cảnh mà tôi sắp trải ra trước mắt ông, cũng không kém buồn thương. Thú thiệt, ngực tôi phập phồng, lòng tôi buồn bực trước cảnh đói khó đang nhiễu hại đám dân khổ này của xứ Bắc Kỳ.

Tôi đã nghiên cứu kỹ các tầng lớp xã hội, rồi một nỗi thương đau chiếm ngập lòng tôi. Nhưng ở đây hãy để cho tôi nói mấy lời cảm cảnh với các nhà cầm quyền địa phương. Họ biết tôi là người khách, có trùm đầu bằng cái áo hộ mạng của nhà nước Pháp, mà họ vẫn tiếp niềm nở, đàng hoàng, lễ phép chân chất.
(….)

Người có tiền của, run sợ mà giấu giếm huê lợi của họ. Người buôn bán thì trốn chui trốn nhủi. Người công kỹ thuật âu lo, bởi vì gia tài của Ất, của Giáp đều như phú thác cho tham ô của cả một guồng máy quan liêu.

Trong khi ấy, đông đảo người dân – những người không có ai coi ra gì – người thợ ư ? người lao công, cày ruộng ư ? Đều rên siết vì nghèo khó tột cùng và đang trải qua những ngày dài không cơm ăn, không việc làm.

Và sự đói nghèo trong dân đà quá mức, khắp nơi rống tiếng hét gào sửa đổi, đòi một sự cai trị đủ sức trị an, để đem ngày mai lại cho dân, để bảo đảm quyền sở hữu, để đem lại cho công nghệ và thương mại sự an toàn và sự hoạt động cần thiết cho chúng sống. Tóm lại là kéo khỏi vực thẩm, kéo ra khỏi nạn đói, dân đen đang hấp hối.
(…)

Nhưng đối với tôi, không có gì nghi ngờ, ảnh hưởng của nhà nước Pháp sẽ gây được không mấy khó khăn và sẽ có sức nặng trong sự thi hành những cải cách cần thiết: cải cách chánh trị, cải cách kinh tế.

Trong lòng tôi đọng lại niềm tin thắm thiết rằng Triều đình Huế nếu không có sự giúp đỡ thì không đủ sức làm cái công việc đồ sộ như vậy và chỉ có nước Pháp là có sức đỡ đần dân tộc đang héo hắt này, nếu Triều đình thiệt lòng tin cậy vào sự giúp đỡ bảo hộ của nó.

Thưa Tham mưu trưởng,

Đó là những nhận xét chung mà tôi có bổn phận trình bày với Ông.
Cuối cùng, tôi mong rằng quan Toàn Quyền đã có chủ tâm lớn đến quyền lợi của dân chúng khốn khó thì hãy ban cho các câu chuyện vừa kể một sự rộng xét và tin tưởng nó là kết quả của một sự xem xét cẩn thận trong khi tôi làm nhiệm vụ nhỏ nhoi này.

Ký tên Petrus Trương Vĩnh Ký.

Nếu đọc lại bản phúc trình trên một lần nữa, chúng ta càng khâm phục cái tinh thần duy lý của Ông, cái lập trường loại bỏ những vị nể tôn giáo hay tín ngưỡng, cái lập trường loại bỏ những thiên kiến của người tín đồ cuồng tín. Thật vậy, chúng ta đều biết rằng, Ông là người theo đạo Thiên Chúa Giáo vào thời ấy. Trước đó, theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì vào năm 1533, vua Lê Quang Tông đã ra chỉ dụ Cấm Đạo Gia Tô“ và từ đó kéo theo các việc dẹp đạo cho đến thế kỷ XIX. Nhưng Ông được người Pháp trọng vọng. Chúng ta thấy Ông đã thẳng thắn lên án các người theo đạo Thiên Chúa trả thù và lộng quyền đàn áp lại người lương khi họ dựa vào thế lực người Pháp. Đây là một triết lý chính trị rất đáng suy nghĩ. Thêm vào đó, trong tờ trình chúng ta còn thấy Ông đã động lòng trắc ẩn đối với nhiều người dân nghèo thiếu ăn thiếu mặc, Ông cũng thẳng thắn lên án bọn quan lại tham ô.

Trương tiên sinh quả đã có một nhận định rất sâu sắc và sáng suốt về thời cuộc ở Bắc Kỳ vào lúc ấy, về tình trạng quan lại tham nhũng, nạn cường hào ác bá, dân tình đói khổ, tình hình xung đột đẫm máu giữa người lương kẻ giáo. Rồi Ông mạnh dạn đề nghị rằng việc cần thiết nhất là phải thi hành một cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp, cải cách kinh tế.

Tinh thần chí công vô tư trong công vụ hòa cùng với lòng cảm thông mến nước thương dân của Ông quả là một thái độ của bậc trí thức cao thượng, của một hành chánh chân chính. Lòng yêu nước còn được thể hiện tận đáy lòng, bởi vì nhịp đập của trái tim Ông lúc nào cũng đồng điệu với nhịp đập của trái tim của đồng bào và của quê hương, nên Ông đã dứt khoát từ chối không nhập Pháp tịch qua bức thư đề ngày 15 tháng 9 năm 1888 gởi cho một người bạn Pháp là Pène Siefert.

Tờ trình trên dĩ nhiên do ông viết bằng chữ Pháp, còn toàn thể truyện du ký này đã được con út của ông là Nicolas Trương Vĩnh Tống dịch ra tiếng Pháp vào năm 1929: “Voyage au Tonkin en 1876”. Truyện này còn được dịch sang tiếng Anh “Voyage to Tonkin in the year Ất Hợi 1876” bởi P.J. Honey, London, School of Oriental and African Studies, 1982.

3.3. Petrus Ký: Nhà thuyết khách tài ba 

Tháng 4, năm 1886, toàn quyền Paul Bert cử ông ra làm việc bên cạnh triều đình Huế. Chỉ trong vòng 4 tháng làm việc ở đây, từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1886, với tài ngoại giao khéo léo, Ông đã thuyết phục được vua Đồng Khánh và triều đình Huế chấp nhận sự hợp tác và bảo hộ của Pháp.

Trong thư gửi cho toàn quyền Paul Bert, Ông đã viết có đoạn như sau:

Huế, ngày 17 tháng 6 năm 1886

Tôi sẽ bỏ lại bọn nịnh thần, tôi đã lựa chọn những người có thực tài kinh tế (viết tắt chữ kinh bang tế thế có nghĩa là sửa nước, giúp đời hoặc kinh thế tế dân có nghĩa là trị đời, giúp dân) mà hầu giúp cho Hoàng Thượng và sung vào Cơ Mật Viện.
Những người có tài không thiếu gì, cứ chọn trong số các nhà Nho học theo đạo Khổng, là chỗ tôi thường trông cậy để lo dìu dắt xã hội.
Những đạo giáo, cuộc sống xã hội, muốn sanh tồn được ấy là nhờ cái nguyên tắc luân lý mà thôi, mà dầu tôn giáo nào đi nữa cũng gồm chung những nguyên tắc ấy, chớ không có chi lạ. Trong đạo trị nước, nếu biết nghĩ như thế, thời tức nhiên phận sự hoàn toàn chẳng có chi khó, nếu các tôn giáo không làm chi náo động dân chúng, thời nhà nước cứ giữ địa vị trung lập mà điều đình. Tôi nói đây là có ý muốn cho ông biết rằng, hể luận đến quyền lợi quốc gia thời tôi không thể kể đến cái đức tin riêng của tôi. Trong bộ sử ký tôi viết, thời tôi cũng đã tỏ cái ấy rồi.

Ký tên

P. Trương Vĩnh Ký

Một lần nữa, chúng ta thấy Trương tiên sinh lập lại cái điệp khúc về triết lý chính trị, về tôn giáo của Ông.

3.4. Petrus Ký: Nhà hành chánh có bản lãnh và đầy tự tin

Năm 1863, Ông tháp tùng với chánh sứ Phan Thanh Giản đi công du tại Pháp. Khả năng ngoại giao của Ông đã được cả triều thần của Napoléon III khen ngợi. Ngoài giờ công cán ông còn tiếp xúc với nhiều văn nhân, triết gia, sử gia, khoa học gia có tầm vóc quốc tế như Victor Hugo (1802 – 1885) là một nhà đại văn hào ở thế kỷ XIX có rất nhiều tác phẩm với nhiều đề tài phong phú và có nhiều ảnh hưởng trong văn học Pháp và thế giới, trong số các tác phẩm của ông có 2 quyển tiểu thuyết nổi tiếng nhất là Les Misérables (1862) và Notre Dame de Paris (1831). Les Misérables đã được dựng thành kịch, được nhiều hãng phim cho quay lại và hiện nay có cả băng video nữa; đặc biệt nhà văn Hồ Biểu Chánh (1885 – 1958), tức Đốc Phủ sứ Hồ Văn Trung, đã từng làm Chánh văn phòng cho Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, Thủ Hiến Nam Kỳ thời Nhật vừa mới thua và Tây trở lại hồi 1945 – 1946, đã mô phỏng chuyện này mà viết thành quyển tiểu thuyết nổi danh ở miền Nam là truyện Ngọn Cỏ Gió Đùa. Ernest Renan (1823 – 1892) là sử gia, triết gia và một nhà văn sau này, ông đỗ Thạc sĩ Triết học năm 1848 và tiến sĩ Văn chương năm 1852, chính Renan đã đề bạt Trương Vĩnh Ký vào danh sách dự tuyển văn hào thế giới vào năm 1874. Bác sĩ Paul Bert (1833 – 1886) đỗ Bác sĩ y khoa và Tiến sĩ khoa học, đã là Bộ Trưởng Giáo Dục dưới thời Thủ Tướng Gambetta từ tháng 01 năm 1881 đến tháng 01 năm 1882, là toàn quyền xứ An nam và Bắc kỳ năm 1886, và v.v. để trao đổi kiến thức với họ.

Những học hỏi của Trương tiên sinh về đạo lý Khổng Mạnh, tinh hoa của văn hóa Đông Phương, với các thầy đồ trong thời thơ ấu; những học hỏi của Ông ở các trường của thầy dòng về Triết lý La – Hy, cái hiểu biết tận gốc rễ của văn hóa Tây Phương; ngoài những học hỏi ở nhà trường, những hiểu biết kinh viện đó, Ông còn đọc biết bao sách vở nghiên cứu về các nền văn hóa Đông và Tây phương; do đó, Ông có được một kiến thức uyên bác về văn hóa Đông và Tây phương. Ông luôn luôn so sánh để tìm ưu điểm của khoa học kỹ thuật Tây phương để tổng hợp lại mà xây dựng cuộc cải cách giáo dục cho đất nước ta. Qua các bài viết của Ông, ta thấy khi đến Paris, Ông không bao giờ bị chói mắt trước cảnh dây thép nói và dây điện chạy giăng ngang trên không trung, hoặc cảnh khói tàu bay cao nghi ngút ở bến cảng như một số nhà văn nông nổi cùng thời với Ông đã khiếp vía trước cảnh văn minh vật chất khi họ vừa bước chân tới Pháp. Ông rất tự tin, tự trọng và khiêm tốn trong khi mạn đàm với ngoại nhân ở nơi đất khách. Cũng chính bác sĩ Paul Bert đã đánh giá được năng lực của Ông, nên khi nhậm chức toàn quyền xứ Annam và Bắc Kỳ, vào năm 1886, đã cử Ông làm việc bên cạnh triều đình Huế.

3.5. Petrus Ký: Nhà hành chánh thanh liêm

Trương tiên sinh đã được toàn quyền Paul Bert trọng dụng, đã được vua Đồng Khánh quý mến. Tuy thân cận với triều đình Huế và quen biết nhiều ngoại nhân, nhưng không bao giờ Ông lợi dụng chức vụ để “ăn tiền” của cải hối lộ. Sự trong sạch và lòng thanh liêm ấy đã tạo nên cuộc sống của Ông rất thanh đạm, nhứt là những ngày về hưu Ông lại càng sống trong cảnh túng thiếu. Nhưng Ông luôn luôn vui vẻ, luôn luôn “an bần lạc đạo”, và lấy việc đọc sách, viết văn làm niềm vui. Thử so sánh với đời sống cá nhân của một vị quan đồng thời với Ông là Kinh lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải, chỉ giữ nhiệm vụ có bảy năm (1890 – 1897) mà đã tạo nên dinh thự nguy nga lộng lẫy. Tuy nhiên, Trương tiên sinh được một phần thưởng tinh thần xứng đáng là trong lúc Ông còn sinh tiền thì các học trò của Ông đều kính trọng và dân chúng từ Bắc vô Nam ai ai cũng kính mến Ông. Kể từ khi Ông qua đời tính đến nay đã trên một trăm năm rồi mà khi nhắc đến Ông, ai ai cũng thương tiếc kính phục một con người trong sạch liêm khiết. Tờ tuần báo “Lục Tỉnh Tân Văn” số 29, ra ngày 4 tháng 6 năm 1908 đã vận động cho việc dựng tượng Petrus Trương Vinh Ký, và tôn vinh Ông là vị thầy của cả nước ta:

“Ông Đốc Ký!

Ông này khi sanh tiền hay là nhà nước tin cậy mặc dầu chớ chẳng ỷ thế mà hại quê hương, chỉ vẽ cho các quan Lang sa (Pháp) biết phong tục lễ nghĩa của con nhà An Nam cho khỏi chỗ mích lòng nhau, làm cho mẹ gà phải thương con vịt. Đêm ngày lo đặt sách này, dịch sách kia cho kẻ hậu sanh dễ học. Thiệt là quan thầy của cả nước và của Nam Kỳ. Nay ông Phủ Minh Tân (ý chỉ Đốc Phủ sứ Gilbert Trần Chánh Chiếu) nghĩ thương kẻ hiền ngõ cậy các quan hiệp nhau lập hội quyên tiền đặng dựng hình ổng mà dương hậu thế, thì chúng ta thảy phải vui mừng nên cúng kẻ ít người nhiều đặng giúp cho nên việc thì cũng đặng vinh hiển chung nhau…”

Tuần báo Đồng Nam, số ra ngày 02 tháng 9 năm 1943 tại Sài Gòn, nhân ngày giỗ thứ 45 năm của Trương Vĩnh Ký đã viết rằng:

“Làm sao nói hết thân thế và sự nghiệp trước tác của Trương Vĩnh Ký cùng ảnh hưởng của Cụ và sự nghiệp Cụ đối với người và văn hóa Việt Nam. (…) Vả lại cụ Trương Vĩnh Ký là một nhân vật lịch sử mà các lớp người sau không có quyền lãng quên được.”

Nhà văn Lê Thanh đã vượt ngàn dậm từ Hà Nội vô Sài Gòn và đến tận nhà ông Trương Vĩnh Ký để trang trọng đọc từng tờ di cảo, từng trang nhật ký của Trương tiên sinh để viết quyển “Trương Vĩnh Ký” do Tân Dân xuất bản năm 1943 ở Hà Nội. Để biết một phần nào lòng tôn kính của một nhà văn ở đất Bắc Kỳ đối với nhà bác học ở đất Nam Kỳ, chúng ta hãy đọc cảm tưởng của Lê Thanh khi bắt đầu viết quyển sách này như sau:

“Trên con đường Sài Gòn – Chợ Lớn bên tay phải, một miếng đất vuông vắn, xinh xẻo, có cái bề ngoài của một biệt thự. Du khách đi qua đọc mấy dòng chữ La Tinh đắp trên tường ngôi nhà bát giác xây ở giữa, cảm thấy một rung động kín đáo, dừng bước cầu nguyện cho một linh hồn; đây là chỗ an nghỉ của nhà học giả Việt Nam – Trương Vĩnh Ký.

Cửa lúc nào cũng mở rộng cho du khách bước vào. Nhà bát giác là một phần, trong cùng vườn, một ngôi nhà còn mới dựng theo một kiến trúc rất cổ, tàng trữ tất cả những cái có quan hệ lịch sử với Trương tiên sinh.

Tôi đến đây hàng tháng, trong những chồng sách đã cũ, đống giấy đã nát, tìm kiếm tài liệu để viết tập tiểu sử Tiên sinh.

Hôm nay cầm bút bắt đầu tập tiểu sử này, tôi bâng khuâng, ngần ngại muốn đặt bút xuống chờ một lúc khác có cảm hứng hơn. Bây giờ chắc tôi không làm được việc gì vừa ý, những ý tưởng hiện tôi có, nếu tôi đặt lên giấy, sẽ không tỏ được một phần những điều tôi muốn viết.

Cái hình ảnh của Trương tiên sinh tôi sẽ phác ra đây có phải đâu hình ảnh linh động mà tôi đã dò được theo từng nét trong những chồng sách, tập giấy kia.

Phải mời các ngài đi với tôi đến tận nơi cùng tôi đi sâu vào những tập thư, quyển nhật ký… gần mục nát, phải được đặt trước các ngài một chồng giấy mỏi mệt hơn nửa phần bị gián nhấm, mọt đục chỉ còn lu mờ ít giòng chữ và mùi mực nhạt. Các ngài mới có thể tìm thấy những nét tinh tế của cái tâm hồn mà từ trước đến nay hễ nói đến là người ta cho là khó hiểu.

Còn gì có thể gửi cho người ta biết một tâm hồn hơn là những bức thư gửi người thân, những trang nhật ký ở trong ấy tất cả việc lớn, nhỏ, những mẫu tư tưởng, những niềm tâm sự…
Hơn một lần, nghiêng mình trên trang di cảo vàng úa, tôi cảm thấy tâm hồn tôi săn lại, khi thấy bằng những giòng chữ rời rạc, Tiên sinh ghi những nỗi lo phiền, buồn tủi… Tôi đã cảm thấy lạnh trong tâm hồn khi đọc mấy chữ ấy, tôi nhận thấy sự đau đớn nhiều hơn sức mạnh, tôi được biết rằng vì quá tận tuỵ cho nhà, cho nước, cho văn chương, cho tư tưởng mà Tiên sinh đã phải trả giá đắt bằng cả sức khỏe và sau cùng cả cái đời của Tiên sinh.

Nhưng có phải ai cũng có cái may mắn được đến đây để tìm cái tôi đã tìm và để có những cảm giác tôi đã có đâu. Nghĩ vậy tôi đành làm công việc theo sức lực của tôi. Mong các ngài sẽ rộng lượng đối với sự hèn yếu của ngòi bút tôi, thêm vào đây cả sự gay go của thời đại này nữa.”

Lê Thanh cũng đã ghi trong sách của ông đôi lời cảm tạ như sau: “Tôi thành thực cảm ơn ông Trương Vĩnh Tống, thứ nam Trương tiên sinh, đã hết sức giúp đỡ tôi trong khi chúng tôi tìm tài liệu tại nhà kỷ niệm “Trương Vĩnh Ký”  tại chợ Quán, đã mở cửa thư viện gia đình ở đường Frères Louis (nay là đường Nguyễn Trải), Sài Gòn, cho tôi xem nhiều giấy má can hệ về Trương tiên sinh, đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện thuộc cái đời riêng của Tiên sinh. Ông đã dặn tôi nên dè dặt khi lựa chọn tài liệu. Tôi đã thận trọng chỗ ấy. Tuy vậy nếu có đoạn nào làm cho ông không vừa ý, chúng tôi xin lỗi trước và thưa rằng cái gì thuộc về Trương tiên sinh đã thuộc về lịch sử cả rồi. Mà cái gì thuộc về lịch sử đều đáng quý cả”

Quyển sách này do Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố đề tựa, Nguyễn Văn Tố là một học giả có nhiều uy tín và nổi danh ở tiền bán thế kỷ XX.

Cũng chính Nguyễn Văn Tố trong bài “Petrus Ký (1837 – 1898)” đăng trong Bulletin de la Société Mutuelle du Tonkin, tom 27 no. l – 2 Janvier – Juin 1937, tr. 27 – 67, đã nhận định sâu sắc và xác đáng về nhân cách đáng quý mến của Trương tiên sinh bằng ba chữ: “Science, Conscience ét Modestie” (Khoa Học, Tâm Thuật và Khiêm tốn).

Ưng Bình Thúc Dạ Thị, nhà lão thành có kiến thức uyên bác ở xứ Huế, trong tập thơ “Tiếng Hát Sông Hương” do Tôn Nữ Hỹ Chương xuất bản năm 1972, nơi tr. 46, có bài thơ “Văn hào Trương Vĩnh Ký” đã diễn tả một lòng kính trọng tiền nhân như sau:

“Đạo đức văn chương là ông Trương Vĩnh Ký,
Có tân thơ, có báo chí, có tự vị rõ ràng,
Thanh danh rạng giữa dinh hoàn,
Học xưa biết trước chỉ đàng cho hậu sanh.”

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên Sài Gòn, là Trưởng ban tổ chức ngày giỗ 100 năm của nhà bác học Petrus Ký tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng 8 năm 1998 đã viết bài “Trường Petrus Ký và nhà bác học Trương Vành Ký” trong đặc san kỷ niệm buổi giỗ này, nơi tr.121 và 122, có một nhận xét rất chí lý về Trương tiên sinh như sau:

“Nói đến Petrus Trương Vĩnh Ký là phải nói đến vai trò “khai đường mở lối” của Ông trên các địa hạt sau đây:

(l) Dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ nôm và chữ Hán trong việc biên khảo, trước tác. (…)

(2) Viết câu văn xuôi thay lối văn biền ngẫu của các nhà Nho. Trong văn chương chữ Hán và chữ Nôm, không có văn xuôi, tất cả là văn có vần có đối như thi, phú, hát nói … Petrus Ký là người đầu tiên viết văn xuôi trong lãnh vực sáng tác.

(3) Xây dựng nền học thuật mới tổng hợp văn hoá Á Đông và văn minh Tây Phương để thay thế nền học thuật cũ của Nho gia. Ông là người đầu tiên đề xướng việc học hỏi khoa học kỹ thuật của văn minh Âu Tây đồng thời bảo tồn và phát huy tinh thần đạo đức của Á Đông. Đó là con đường mà sau này nhóm Nam Phong tạp chí của thế hệ 1917 sẽ tiếp nối. Đó cũng là tinh thần dân tộc, khai phóng và nhân bản mà nền giáo dục phổ thông của Việt Nam Cộng Hòa dùng làm nguyên tắc căn bản (…).

(4) Petrus Ký là người đầu tiên làm báo theo đúng nghĩa của một tờ báo. Thật ra thì tờ Gia định báo chỉ như một tờ tin tức công quyền, chuyên đăng những nghị định, những thông cáo của chính quyền mà thôi. Khi Petrus Ký trông coi thì tờ báo mới có thêm tin tức và những bài vở có giá trị khảo cứu sáng tác.”

Gần đây, ngày 26 tháng 12 năm 1995, Christine Nguyễn đã trình một tiểu luận với đề tài “Petrus J. B. Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898) and The Dissemination of Quốc ngữ. An Annotated Bibliography of by and about a Vietnamese Scholar” (Petrus Jean Baptiste (1837 – 1898) và sự truyền bá chữ Quốc ngữ: Thư tịch có chú giải về các tác phẩm do Trương tiên sinh viết và các tác phẩm viết về nhà bác học Việt Nam này) khi tốt nghiệp Master of Library Science tại Queens College City University Of New York, Hoa Kỳ.

Các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký có một số lượng đồ sộ cùng với một nội dung vô cùng phong phú, thuộc nhiều đề tài khác nhau như sử ký, ngữ học Việt Nam, dịch thuật, chú thích Tứ Thư (Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử), văn học dân gian, các bản văn chữ Nôm, chữ Nho, sách giáo khoa …; và nhất là có giá trị lịch sử, sẽ là đối tượng của nhiều luận án sau này nữa.

Ngày nay cuộc đời và sự nghiệp văn hóa của Trương Vĩnh Ký đã có tầm vóc quốc tế. Chúng ta có thể thấy Petrus Ký ở trong nhiều bộ bách khoa tự điển, tự điển tiểu sử danh nhân bằng 3 thứ tiếng Việt, Anh và Pháp.

Ngoài bài viết rất có giá trị của Nguyễn Văn Tố bằng tiếng Pháp hồi năm 1937 tại Hà Nội đã dẫn ở trên, còn có một quyển khác cũng rất có giá trị do một người Pháp viết:

– Jean Bouchot, Petrus J. B. Trương Vĩnh Ký: Un Savant et un Patriot Cochinchinois, 3ème éd. Revue et Conigée, Sai Gon: Nguyễn Văn Của, 1927, l06p.

Có nhiều sách viết về Tiên sinh bằng tiếng Anh, trong đó có 3 quyển đáng lưu ý là:

– De Francis, John, Colonialism and Language Policy in Việt Nam: Contributions to the Sociology of Language, New York; Mouton Publishers, 1977, 293 trang.
–  Milton, E, Osborne, The French Presence in Cochin china and Cambodia: Rule and Response (1859 – 1905). Ithaca: Cornell University Press, 1969, 379 trang.
– Thomson, J., The Straits of Malacca, Indochina: or, Ten Year’s Travels, Adventures and Residence Abroad, New York: Harper & Brothers, 1875), tr.177, 178. Đây là cuốn du ký vùng Đông Nam Á, trong đó Thomson có kể lại việc đã gặp Petrus Ký, ghi lại tiểu sử của Trương tiên sinh và khen Petrus Ký nói tiếng Anh rất giỏi: “Perfect English, with just a slight accent, while in French he could converse with the same purity and ease.” Tr. 177

Phong cách đáng tôn trọng của Trương tiên sinh và sự nghiệp văn hóa lẫy lừng của Ông đã là đề tài cho nhiều bài thuyết trình, bài viết cũng như nhiều quyển sách có giá trị, có nhận định sâu sắc, khách quan vô tư, và có tinh thần dân tộc, khai phóng, nhân bản, chẳng hạn như:

– Đặng thúc Liêng, Trương Vĩnh Ký Hành Trang, Sài Gòn: nhà in Xưa Nay, 1927.

– Huyền Mặc Đạo Nhân, Danh Nhân Nam Kỳ: cụ Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn: Báo Nguyệt San Đồng Nai, số 23 – 24, l5 Janvier – l Février 1933, tr. 21 – 26.

– Huỳnh Văn Tòng, Tờ Báo đầu tiên ở Việt Nam, Gia Định Báo, Lịch sử báo chí Việt Nam, Sai Gòn: Trí Đăng , 1973, tr.51 – 56.

– Khổng Xuân Thu, Trương Vĩnh Ký, Sai Gòn; Tân Việt, 1958.

– Lê Thanh, Trương Vĩnh Ký, Biên Khảo, Hà Nội: Tân Dân, 1943.

– Lưu Khôn, Một Quan Niệm Chép Sử của Sĩ Tải Petrus Trương Vĩnh Ký, California: Đặc San Petrus Ký,1998, tr.30 – 31.

– Nguyễn Thanh Liêm, Trường Petrus Ký và Nhà bác học Petrus Ký, California: Đặc san Petrus Ký 1998, tr. 119 – 123.

– Nguyễn Văn Trấn, Trương Vĩnh Ký, Con Người và Sự Thật, Sài Gòn: Ban Khoa Học Xã Hội, tháng 5 năm 1993.

– Nguyễn Văn Trung, Trương Vĩnh Ký, Nhà Văn Hóa. Sài Gòn: Hội Nhà Văn, tháng l l năm 1993.

– Phạm Thế Ngũ, Trương Vĩnh Ký trong quyển Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Tập III, Sài Gòn: Quốc Học Tùng Thư tr. 51 – 56.

– Vũ Ký, Trương Vĩnh Ký: Nhà thông thái và nhà giáo dục, trích bài diễn văn của chính giáo sư Vũ Ký đại diện Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa đọc trong buổi lễ Tưởng niệm Trương Vĩnh Ký ngày 02 tháng 8 năm 1973 tại Sài Gòn, đăng lại trong đặc san Petrus Ký 1998, tr.23 – 29.

– Vương Hồng Sển, Cánh Buồm Bể Hoạn trong quyển Hơn Nửa Đời Hư, California: Văn nghệ, 1994, tr.237 – 238.

3.6. Quan niệm về xuất xử của Petrus Ký

Trương tiên sinh đã từng gặp những thăng trầm trên bước hoạn lộ. Ngày 11 tháng 11 năm 1886, toàn quyền Paul Bert từ trần tại Hà Nội vì bị bịnh. Trong lúc đó tiên sinh đang nghỉ phép ở Sài Gòn, hay tin này Ông liền cáo bịnh để xin từ chức và không còn trở ra Huế làm việc nữa. Quyền Thống sứ Paulin Vial, nguyên là một phụ tá của Paul Bert, đã tìm cách triệt hạ các người của Paul Bert ấy. Tháng 12 năm 1886, Paulin Vial ra lệnh sụt lương của Petrus Ký và còn dự định bãi chức ông nữa, có thể một phần để dứt vây cánh của Paul Bert nhưng cũng có thể vì Ông đã biết quá nhiều trong lúc làm nhiệm vụ trung gian giữa chánh phủ bảo hộ Pháp và triều đình Huế, cũng có thể vì Ông vẫn luôn luôn thương đồng bào và yêu nước Việt Nam. Nhưng may mắn thay, nhờ Petrus Ký có nhiều bạn thân ở Pháp can thiệp nên họ đưa Ông trở lại làm việc tại Súy phủ Sài Gòn và cho đi dạy học trở lại. Lúc ấy Ông được 50 tuổi ta, và đã hiểu biết thế nào là thiên mệnh. Trước Ông, Nguyễn Công Trứ cũng đã từng trải qua cảnh vinh nhục trên bước hoạn lộ:

“Tuổi tác tuy rằng chửa mấy mươi,
Đổi thay ắt đã thấy ba đời,
Ra trường danh lợi vinh liền nhục,
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.

Chuyện cũ trải qua đà chán ngắt,
Việc sau nghĩ lại chẳng thừa hơi.
Đã hay đường cái thường ra thế,
Sạch nợ tang bồng mới kể người”.

(Nguyễn Công Trứ, Làm quan bị cách)

Chú thích: Ba đời là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị.

Trên chính trường, vinh nhục như trở lòng bàn tay. Hôm nay chiến thắng thì làm vua hưởng vinh quang, ngày mai thua thì làm giặc chịu nhiều cảnh nhục nhã. Chán ngán quan trường, nhiều vị quan muốn vứt bỏ mọi chức tước, công hầu, khanh tướng nào có còn ý nghĩa gì nữa; lợi danh, thị phi cũng bỏ ngoài tai để lui về ở ẩn, để vui thú điền viên và hưởng cảnh an nhàn.

Quan niệm về xuất xử của ông thì cũng như của các nhà Nho ngày xưa: “tiến vi quan, thoái vi sư”. Xuất là ra làm quan, xử là về ở ẩn. Nhưng lúc nào tiến, lúc nào phải dừng lại, lúc nào thoái, đó là một triết lý hành động tùy thuộc vào quan niệm về cuộc đời của từng người. Theo Petrus Ký, Trương Lương là tấm gương minh triết soi sáng cho Ông về con đường xuất xử. Ông đã tỏ bày tâm sự này qua bài “Trưng Lương hầu phú” được Ông sáng tác vào năm 1882, và trong một bức thư gởi cho các bạn thân để trả lời câu hỏi: “Tại sao tôi đắc thời mà không chịu ở lại làm quan tại triều đình Huế”, có đoạn như sau:

“(…) Ông đã có viết thư mà hỏi tôi sao từ giã đường công danh đi mà không chịu làm quan nữa…? Giữa đám tiệc tôi không dám nói cho hết tiếng mà đáp lại cho hết ý. Nên nay có thiếp của các ông gởi mừng ngày lễ bổn mạng tôi xin tạm ít chữ trần trình cho các ông hay, kẻo các ông có lòng thương mà tiếc cho tôi.

Ở đời xử đám công danh là khó lắm, đưa đường danh lợi là hiểm nghèo lắm; một là nên hai là hư, mà hư thì thường thường nhiều hơn, hễ mê hễ đắm ham hố quá thì làm sao bắt chước Trương Lương dụng khí minh triết bảo thân (khôn ngoan để giữ mạng sống), là lo xét coi vọi nhắm chừng cho biết đường tấn thối mà rứt mình ra khỏi bẫy được”.

Trương Lương là ai mà Trương Vĩnh Ký đã tôn sùng và quý mến như vậy? Chúng ta hãy trở về lịch sử xa xưa của Trung Quốc để tìm hiểu về Trương Lương.

Nhà Tần (221 – 206 tr.CN) bạo ngược. Tần Thủy Hoàng đã đốt sách chôn học trò. Các vua nối nghiệp vẫn tiếp tục chính sách bạo tàn ấy, cho nên có nhiều cuộc loạn nổi lên. Trần Thắng khởi binh ở đất Kỳ, Hạng Lương và cháu là Hạng Tịch ở đất Ngô, Lưu Bang ở đất Bái. Trần Thắng và Hạng Lương lần lượt bị tử trận. Cuối cùng thì Hạng Tịch và Lưu Bang tiến vào được đất Tần, cướp phá kinh đô Hàm Dương, giết vua cuối cùng của nhà Tần là Vương Tử Anh, quật mồ Tần Thủy Hoàng và đốt sạch các cung thất nhà Tần. Hạng Tịch, tức Hạng Võ, lập Sở Hoài Vương làm Nghĩa Đế, nhưng chẳng bao lâu lại giết đi để tự xưng là Tây Sở Bá Vương. Hạng Võ phong Lưu Bang làm Hán Vương ở đất Ba Thục và Quang Trung.

Hán vương Lưu Bang may mắn có 3 bậc tuấn kiệt giúp sức là: Tiêu Hà coi việc phụ chính, Trương Lương làm quân sư, Hàn Tín làm đại tướng, nên quyết tranh giành thiên hạ với Tây Sở Bá Vương Hạng Võ. Hán – Sở tranh hùng được gần 6 năm thì Hàn Tín đánh bại Hạng Võ. Hạng Võ thua trận và chạy tới sông Ô Giang thì tự vận. Trong 6 năm tranh hùng ấy, quân sư Trương Lương đêm ngày ở bên cạnh Lưu Bang để bàn mưu, hiến kế. Hán vương Lưu Bang lên ngôi Hoàng đế năm 202 trước Tây lịch, tức là vua Cao Tổ liền phong điền và bổng lộc cho hơn một trăm khai quốc công thần trong đó có Hàn Tín làm Sở Vương, Tiêu Hà, Bành Việt, Anh Bố đều được phong vương.. . Riêng Trương Lương thì ông đã khéo léo tìm cách từ chối mọi chức tước, công hầu khanh tướng, và xin về Lưu Huyện, thuộc đất Bái là nơi mà ông đã theo Lưu Bang phất cờ khởi nghĩa chống nhà Tần. Trương Lương trở về vui thú điền viên, sống đời của kẻ ẩn sĩ.

Lưu Bang là một nông dân vô học, vô tài, thiếu đức, nhưng lại có nhiều thủ thuật cao cường và thâm độc. Lúc vừa mới lên ngôi, Lưu Bang đã say mê cơn chiến thắng và tự đắc tưởng rằng đã đến lúc không cần tới các kẻ có tài đã từng theo giúp ông nữa. Một hôm ông mắng Lục Giả rằng: “Ta ngồi trên mình ngựa mà được thiên hạ, đâu cần học Thi, Thư”, có hôm Lưu Bang gặp một nho sinh ở ngoài đường rồi lấy nón của người học trò liệng xuống đất và đái lên nón ấy. Hán Cao Tổ lại có lòng nghi kỵ, luôn luôn sợ người lật đổ. Nên chẳng bao lâu, Lưu Bang giết hoặc hãm hại sạch cả khai quốc công thần mà vua có ý nghi ngờ, họ là những người đã từng vào sanh ra tử để giúp cho Lưu Bang xây dựng đế nghiệp nhà Hán. Hàn Tín và Bành Việt bị giết cả ba họ, Anh Bố thấy vậy bỏ trốn nhưng rồi cũng bị giết. Tiêu Hà thì bị bắt cầm tù… Riêng Trương Lương đã về ẩn dật nơi thảo dã, xa cách kinh thành nên đã bảo toàn được tính mạng. Đó là thái độ “minh triết bảo thân” của ông. Người đời sau tôn sùng và quý mến Trương Lương nên đã lập miếu thờ ông. Trương Lương là bậc minh triết đáng tôn kính. Quả thật là:

“Tri mệnh, thức thời duy tuấn kiệt”
(Nguyễn Công Trứ – Cầm, kỳ, tửu)

Việc làm của Lưu Bang đã khiến hiền tài ẩn náu, không ai dám ra làm quan. Nội triều không có kỷ cương, rối loạn; dân chúng thì đói khổ; giặc Hung Nô thì quấy nhiễu ở biên thùy: Thế rồi Lưu Bang mới nhận ra ngồi trên lưng ngựa có thể chiếm thiên hạ, vó ngựa, binh đao chỉ làm khiếp lòng người mà thôi; chứ ngồi trên lưng ngựa thì không thể nào mà trị được thiên hạ. Muốn trị thiên hạ thì phải cần đến kẻ sĩ, đến những người có học thức, với tài kinh tế. Nên cuối cùng Hán Cao Tổ đã dùng Lục Giả, Thúc Thôn Thông, Lịch Tư Cơ nghiên cứu phép tắc của thời trước mà đặt ra triều nghi, từ đó triều đình mới có trật tự; và sửa đổi việc trị dân, nên dân chúng mới có đời sống khá hơn. Hán Cao Tổ làm vua được 8 năm thì băng hà.
Nếu dân chúng Trung Quốc đã tôn kính Khổng Minh Gia Cát Lượng và Quan Công, hai nhân vật lỗi lạc theo phò tá cho hậu duệ nhà Hán là Lưu Bị dưới thời Tam Quốc, và đã lập miếu thờ các vị này ở khắp nơi; thời dân Việt Nam cũng nên tôn kính nhà minh triết Trương Vĩnh Ký như vậy.

4. Kết Luận

Nhà bác học Trương Vĩnh Ký đã có công lao to tát trong việc phát triển chữ Quốc ngữ, Ông là vị Tổ của ngành báo chí viết bằng chữ Quốc ngữ. Riêng trong lĩnh vực hành chánh, Trương tiên sinh là một nhà hành chánh lỗi lạc, luôn luôn chu toàn phận sự của mình, trong công vụ lúc nào Ông cũng chí công vô tư, và nhất là Ông có lòng thanh liêm, một đức tính cao quý của nhà hành chánh. Tiên sinh là một người trí thức cao thượng có đầy tâm huyết đối với sự an nguy của đất nước và dân tộc. Trương tiên sinh rất đáng được tôn sùng và kính mến.

Trong bài “Trương Vĩnh Ký: Người thầy giáo xuất chúng của đất Nam Kỳ” đăng trong Đặc san Petrus Ký, số kỷ niệm ngày giỗ trăm năm nhà bác học Petrus Ký, do Liên Hội ái Hữu Petrus Ký Bắc và Nam Cali ở Hoa Kỳ thực hiện, tháng 8 năm 1998, tr.41, tôi đã viết:

“Petrus Ký và sự nghiệp của tiên sinh sẽ sống mãi với thời gian. Trương tiên sinh là nhà bác học, nhà yêu nước, nhà hiền triết, nhà văn, nhà giáo xuất chúng của Việt Nam. Chúng ta không những phải học hỏi những kiến thức quý báu của tiên sinh mà còn phải học hỏi cái tấm gương đạo đức sáng ngời của tiên sinh nữa. Trương tiên sinh quả là bậc siêu nhân, một vĩ nhân của nước việt Nam. Tiên sinh đã làm tròn sứ mạng lịch sử của mình giữa lúc đất nước đã rẽ qua một khúc quanh mới: triều đình Huế và các sĩ phu đã không giữ được đất nước, giang san đã bị Pháp thôn tính, mà nhiều người trí thức vào thời điểm ấy phải có một sự lựa chọn để cứu vãn cho đất nước.

Như đã trình bày ở trên, tiên sinh chỉ có con đường là ra hợp tác với Pháp và nhờ đó mà có thể vận động cuộc cách mạng về giáo dục để nâng cao dân trí và canh tân đất nước.
Điều mà tiên sinh thành công là cuộc cải cách về học vấn, các thế hệ thanh niên sau này đã nghe lời dạy của tiên sinh mà quyết tâm đi học cái Tây học để học hỏi cái học thuật, tư tưởng, kỹ thuật, kinh tế, chính trị … của Tây Phương, và cuối cùng sử dụng cái sở học này mà tranh đấu giành lại độc lập, tự do cho đất nước.

Petrus Ký là vị thầy kính yêu muôn đời của Việt Nam, kiến thức của Trương tiên sinh có chiều cao ngất trời. Tiên sinh đã vận dụng cái vốn kiến thức quý báu đó vào ngòi bút để chuyển lửa, để truyền đạt ngọn lửa cải cách giáo dục vào tim, vào óc của kẻ hậu sinh với ước mơ thế hệ mai sau sẽ thực hành lời dạy của mình; bao nhiêu mong ước ấy có ngờ đâu đã trở thành hiện thực. Những người như tiên sinh thì sống mãi mãi trong tâm thức của chúng ta. (For men such as he who lives in our hearts and our minds forever)”.

Lời giới thiệu:  Bài viết “Trương Vĩnh Ký: Nhà văn hoá lỗi lạc” đã đăng trong Đặc San Quốc Gia Hành Chánh, Toronto, tỉnh Ontario, Canada vào dịp Xuân Kỷ Mẹo (1999). Bài này đã được đăng lại trong Đặc San Petrus Ký 2002 do Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Petrus Ký Bắc California, USA thực hiện. Vào tháng 6 năm 2005, 3 cựu học sinh Petrus Ký là TS Trần Văn Đạt, Lê Thành Lân và Phạm Hồng Đảnh đã chủ biên tuyển lựa các bài viết về Petrus Ký trong nhiều thập niên qua để kết tập lại thành một tuyển tập lấy tên là “Hiện Tượng Trương Vĩnh Ký”, đây là tựa bài viết của GS Thạc Sĩ Hồ Hữu Tường đã đăng trong tờ Bách Khoa số 404, ngày 5 tháng 9 năm 1974. Đây cũng là bài nói chuyện của GS Hồ Hữu Tường (1910-1980) tại trụ sở Trung Tâm Văn Bút Việt Nam ở Sài Gòn vào sáng ngày Chúa Nhật 28 tháng 07 năm 1974. Tuyển tập này gồm có 27 bài viết của 27 nhà biên khảo đầy uy tín như TS Trần Văn Đạt, Phạm Hồng Đảnh, GS TS Nguyễn Thanh Liêm, Trần Ngọc Thạch, GS Đỗ Quang Vinh, GS Vũ Ký, Phạm Đình Tân, Nguyễn Văn Trấn, Quán Phong, GS Lê Văn Đặng, Tân Văn Hồng, GS Dương Ngọc Sum, Nguyễn Vy Khanh v..v.. và tôi. Tuyển tập này dày 463 trang, khổ sách 14 cm x 21 cm.

Tên Đường Phố Sài Gòn Xưa & Nay

Để nhớ một thời… Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương… (Bà Huyện Thanh Quan) Tên đường phố Sài Gòn: xưa (thời Pháp...

Nét thú vị trong “ca dao Hán Việt”

Trong kho tàng ca dao Việt Nam có một số ca dao nửa Việt, nửa Hán đọc lên rất lý thú và dường như ít được nhắc đến trong chương...

Bức tranh toàn cảnh về lịch sử chữ viết của người Việt

Chữ viết biểu thị cho nền văn minh của một nước. Ở Việt-Nam, chữ Hán chiếm địa vị chính thức suốt thời Bắc thuộc và tự trị, là thứ chữ...

Đời buồn như bolero của nhạc sĩ Trúc Phương

Chẳng quá lời khi gọi Trúc Phương là “Ông hoàng nhạc Bolero”. Với cả gần trăm ca khúc, hầu như bài hát nào của ông cũng có một sức sống...

Gia Định tam gia: Niềm tự hào của đất Sài Gòn – Gia Định

Cụ Võ Trường Toản, danh sĩ đất Gia Định, đã không ra làm quan với nhà Tây Sơn trong thời gian họ chiếm đóng vùng đất này. Cụ mở trường...

Người kiếm củi được con hươu

Người nước Trịnh kiếm củi ngoài đồng, thấy con hươu lạc, đón đánh chết được ngay. Anh ta sợ người ngoài trông thấy, vội vàng giấu xác hươu vào trong...

Thành đạt không đủ để mừng, nghèo khó không đáng để lo

“Thái căn đàm” là một cuốn sách chứa đựng những kinh nghiệm tu dưỡng, làm người, đối nhân xử thế của cổ nhân, ẩn chứa trí tuệ cao thâm sâu...

Những nơi có giá nước sạch đắt nhất thế giới

Tại Papua New Guinea, người nghèo phải bỏ ra hơn 50% thu thập để dùng nước sạch. Người dân ở một ngôi làng thuộc bang Gujarat, Ấn Độ, đứng kín...

Harry Roberts và vụ án mạng chấn động Anh

Robert lúc đó 30 tuổi cùng với bạn bè trong thế giới ngầm gồm Jack Witney 36 tuổi và John Duddy 37 tuổi đã lảng vảng cả ngày quanh khu...

Bức tranh toàn cảnh miền Bắc Việt Nam 100 năm qua

Cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, tôi lại thích nghĩ về quá khứ, về những gì đã qua. Tết là một cái cớ để sống chậm lại và suy...

Góp ý về từ “Đốc”

Kiến thức ngày nay, số 231 có bài “U em” (tr. 22, 23) làm tôi rất cảm động. Xin được chia sẻ với tác giả một cách chân thành và...

Điểm khác biệt lớn nhất giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân

Người xưa có câu: “Gần son thì đỏ, gần mực thì đen”, nên họ rất coi trọng việc nhìn người để kết giao. Vô luận là kết giao bạn bè, tìm kiếm bạn...

Exit mobile version