Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Làng Dơi ở Đồng Tháp Mười

Đồng Tháp Mười, xứ sở đã từng được đặc tả nét riêng “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh”. Nơi đây, nông dân mới có thêm một nghề tăng thu nhập kinh tế hộ gia đình. Nhiều người đã bắt nhạy nghề này, đua nhau hùn hạp làm ăn. Đó là nghề dựng chòi lá thốt nốt nuôi dơi để lấy phân.

Trong sách thuốc, phân dơi cũng là vị thuốc, gọi là “dạ minh sa”. Còn phân dơi do bà con nuôi bây giờ chủ yếu bán cho nhà vườn, bón cho cây ăn trái đặc sản. Nghe vậy mà ham, muốn đến thăm các làng Dơi ở Đồng Tháp Mười. Mới đây, tôi có dịp thăm các làng nuôi dơi. Chiếc xuồng máy đưa chúng tôi lên với làng Dơi xuất phát từ cầu Cổ Cò, chạy riết ngược lên vùng Đồng Tháp Mười. Một tay chèo, một tay bẻ lái cho chiếc xuồng ba lá ghếch mũi lên bờ kênh, cô gái vui vẻ nói:

Chúng tôi cảm ơn cô gái chèo xuồng duyên dáng và vui tính ấy, bước lên bờ kênh. Đã vào cữ cuối năm, nắng chiều vàng nhạt, gió Đồng Tháp Mười se se lạnh. Chúng tôi đi vào buổi chiều, để “phục kích” lúc chập tối, dễ gặp được chủ chòi dơi, để nghe chuyện về cái nghề mới – nghề nuôi dơi của người dân xứ này.– Đến làng Dơi rồi đó. Mấy anh lên bờ, lội bộ qua bưng trống là “dô” làng Dơi.

Dọc theo con đê chống lũ của xã Tân Hòa Tây, chúng tôi lội bộ ra cánh đồng, nơi có những chòi nuôi dơi của nông dân ở ấp Đông. Vừa lúc đó, chủ chòi dơi là anh Ba Vũ cũng bước tới. Anh Ba Vũ tâm sự:

– Gọi là nuôi dơi, nhưng đúng ra là làm chòi dụ dơi về làm tổ. Có cái chòi “ngon lành” là bầy dơi tự rủ nhau đến làm nơi trú ngụ. Dơi tự kiếm ăn. Tụi tui cũng phải bỏ ra số vốn không ít để làm chòi dơi. Phải siêng năng, thận trọng và biết cách mới có nhiều dơi về chòi. Dân ở đây làm chòi cho dơi ở, rồi lấy phân dơi đem bán, nghề mới này hiện đang “phất” lắm. Ở huyện Tân Phước, một huyện đầu nguồn lũ, huyện vùng sâu của Đồng Tháp Mười này cũng đang phát triển nghề làm chòi dơi. Đã có nhiều làng dơi ở Mỹ Phước, Hưng Thạnh, Phú Mỹ, Tân Hòa Tây…

Anh Ba Vũ còn nói với chúng tôi rằng, đến thăm chòi dơi vào lúc mặt trời lặn thì chủ chòi dơi cho ghé thăm. Nếu như vào giờ khác, người gác chòi dơi không cho khách đến sát chòi, sợ động, dơi bay hết. Thường là khoảng 6 giờ chiều, khi nắng tắt, dơi rời tổ đi ăn. Lúc đó, chòi dơi trống trơ. Chủ chòi cũng tranh thủ lúc đó ra chòi thay lá, làm vệ sinh, thu lượm phân dơi. Phân dơi từ mấy năm qua đã trở thành hàng hóa khá “ăn khách”, có mấy hút nấy, không bị ế . Bầy dơi bay ra không gian kiếm ăn lúc chập choạng tối chừng 30 phút, chúng sẽ bay về chòi “nghỉ cánh”. Trong 30 phút đó, người thay lá, làm vệ sinh, thu phân dơi phải nhanh. Nếu chậm, dơi về thấy động sẽ bỏ chòi bay đi hết. Biết vậy, đợi Ba Vũ thoăn thoắt thay lá, dọn chuồng dơi xong, chúng tôi mới theo Ba Vũ về nhà anh. Đúng như Ba Vũ nói, đến giờ đi kiếm ăn tối là bầy dơi vù cánh bay đi hết, để lại một chòi trống trơ, không còn một chú dơi nào canh chòi. Khoảng 30 phút sau, chúng lại phần phật bay về, rào rào cánh bay vào chòi. Người ta nói rằng, đó cũng là “kỷ luật” giờ giấc của bầy dơi, cùng bay đi kiếm ăn, cùng tụ về tổ, ít thấy những chú dơi lạc loài “phạm kỷ luật”.

Chúng tôi ngồi trên tấm chiếu bàng trước thềm, dưới ánh trăng mờ của bầu trời Đồng Tháp Mười cuối mùa gió chướng. Nhăm nhi li rượu đế với khô lóc, anh Ba Vũ kể về nghề nuôi dơi ở vùng này.

Dạo đó, một cái chòi giả bằng lá thốt nốt được dựng lên trên cây sầu riêng để bẫy máy bay trực thăng. Lạ thay, cái chòi trên cây sầu riêng ở cù lao Tân Phong ấy, sau nhiều lần bắn phá vẫn còn nguyên. Khi tiếng súng tạm yên, bầy dơi đã về làm tổ.
Cây sầu riêng có chòi dơi lại xanh um, sum suê nhất vườn, cho nhiều trái, mà trái nào cũng to, nhiều múi, thơm ngon. Biết là giống sầu riêng rất “hạp” phân dơi, anh Ba Vũ  đã đi lùng mua phân dơi để bón cho vườn sầu riêng. Cây sầu riêng ở miệt vườn cù lao Tân Phong, cù lao Ngũ Hiệp, và cả cù lao  An Bình bên Vĩnh Long được bón phân dơi đã cho năng suất đậu trái gấp đôi so với bón phân hóa học và các loại phân hữu cơ khác. Mấy năm gần đây, các nhà vườn trồng dưa hấu ở Gò Công, Cai Lậy, Cái Bè, Tân Phước và bên Long An, Vĩnh Long cũng chuộng phân dơi bón dưa hấu, vừa cho năng suất cao, ít sâu bệnh, thịt dưa chắc, đỏ au, ít hạt. Phân dơi không những đã trở thành hàng hóa phục vụ nông nghiệp, các nhà vườn ưa chuộng, mà còn được bán cho một số cơ sở dược mua về loại boe tạp chất, sơ chế ra một loại nguyên liệu làm thuốc chữa bệnh cho người, làm thuốc thú y, và nhiều khi còn là nguyên liệu phụ gia để làm thuốc súng, làm pháo bông, cho nên nó còn có giá trị xuất khẩu.

Nghe anh Ba Vũ nói về tác dụng của phân dơi, tôi mới nhớ ra: Trong cuốn “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, dược sĩ Đỗ Tất Lợi đã viết rằng, phân dơi – dạ minh sa (còn gọi là thiên thử phẩnbiên bức phẩn). Vì phân dơi ban đêm có ánh như lân tinh, trông nhấp nhánh như cát, nên gọi là dạ minh sa. Tính chất ghi trong sách cổ là: Dạ minh sa vị cay, hàn, không có độc, vào can kinh, có tác dụng hoạt huyết. Khi người ta đau mắt là do can (gan) nhiệt, huyết xông lên mắt, cho nên dùng dạ minh sa để chữa gan. Dạ minh sa được bào chế và hợp vị với thảo quyết minh, cốc tinh thảo, mật mông hoa, nhiều khi trộn với cả mật lợn, dùng làm thuốc chữa bệnh thong manh, quáng gà, mắt khô, mắt mờ. Người ta đã phân tích thành phần hóa học của phân dơi, có urea, acid uric, vitamin A, v.v.

Một chòi dơi cư trú xôm bầy, mỗi đêm cho từ 1- 1,5 giạ phân dơi (một giạ bằng 20kg). Vào cuối mùa khô, muỗi Đồng Tháp Mười có nhiều, mùa no căng của dơi, cũng là mùa sinh đẻ của dơi, mỗi đêm chòi dơi cũng cho thu tới trên 2 giạ phân dơi. Bình quân mỗi giạ phân dơi bán được 50.000 đồng, một tháng mỗi chòi dơi cũng cho thu nhập tới 1,5 triệu đồng. Cả ấp Đông của xã Tân Hòa Tây hiện nay có 27 chòi dơi. Có nhà đã dựng tói 4 chòi dơi, thu nhập bình quân 5-6 triệu đồng/ tháng. Nhưng, cũng phải có vốn mới làm được chòi dơi. Vì mỗi chòi dơi chi phí nguyên vật liệu, mua lá thốt nốt để có lá thay liên tục, cũng tới 5- 6 triệu đồng. Chỉ có lá thốt nốt mới “dụ” được dơi bầy vào chòi. Các lọai lá khác, dơi không tụ bầy cư trú. Chòi cao 10 mét, có 6 trụ thành hình lục giác đều, cạnh dài 10 mét, ngang 6 mét, mái có thể lợp bằng lá dừa nước, nhưng lá treo trong chòi cho dơi đeo bám phải là lá thốt nốt. Phải đi tận biên giới An Giang mới mua được lá thốt nốt, chi phí mua và vận chuyển lá thốt nốt về Đồng Tháp Mười cũng tốn kém. Trên trần chòi người ta phải làm một cái sàn bằng gỗ tốt, chắc chắn, còn gọi là dàn dơi bám, để có sức giữ được 500 tàu lá thốt nốt và hàng nghìn con dơi đeo bám vào lá thốt nốt. Bốn bên chòi còn phải che kín bằng lá chằm để che mưa, gió, tránh nắng. Chòi dơi nên dựng cạnh bờ sông hoặc bờ kênh để dơi tiện uống nước, lại phải che chắn để giữ ấm vào mùa lạnh, thoáng mát về mùa nóng, phải thường xuyên thay lá để tránh rệp và chống bệnh cho dơi, nếu để bị bệnh thì bầy dơi sẽ bỏ chòi bay đi nơi khác. Chòi dơi phải đón được nắng mai, che được nắng trưa và nắng chiều, tránh được hướng gió lạnh lùa vào chỗ dơi cư trú. Rắn ráo và rắn lục coi dơi là món ăn khoái khẩu, vì thế, thay lá cũng là chống rắn, thấy rắn là diệt ngay để bảo vệ đàn dơi. Nghề “nuôi” dơi cũng lắm công phu.

Đến làng dơi vào dịp cuối năm và trò chuyện với các nhà nuôi dơi ở vùng Đồng Tháp Mười, chúng tôi còn được các “nhà dơi học” nguyên chất nông dân ở đây nói rằng, tạo ra nhiều chòi dơi nghĩa là tăng trưởng đàn dơi nhanh, sẽ tăng nhiều thiên địch của loài muỗi, và như vậy cũng góp phần phòng ngừa và giảm được bệnh sốt xuất huyết, một loại dịch bệnh thường mắc với tỷ lệ khá cao ở vùng này. Chòi dơi cũng cần dựng cách xa khu dân cư khoảng 200- 3000 mét để giữ cho không khí ở khu dân cư được trong lành. Làm kinh tế bằng khai thác nguồn lợi từ phân dơi, nhưng người làm chòi dơi cũng luôn luôn ý thức điều đó, bảo vệ, làm phong phú thêm môi trường sinh thái thiên nhiên và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Uống rượu đế nếp với sản vật ngon lành của vùng Đồng Tháp Mười thân thuộc, chúng tôi nằm ngay thềm nhà của anh Ba Vũ, đón gió mát từ đồng xa thổi về. Cả chủ và khách đi dần vào giấc ngủ trong biết bao chuyện mới mẻ và sinh động ở làng dơi. Mới mờ sáng hôm sau, tôi tỉnh giấc, nhìn ra bầu trời đã thấy đen đặc những đàn dơi. Vâng, đúng như  anh Ba Vũ nói, chạng vạng và tinh mơ là giờ bay đi kiếm ăn của bầy dơi ở Đồng Tháp Mười.

Biểu diễn thời trang hàng nội hóa 1960

Đây là những hình ảnh cảm động và có thể khiến ta ngạc nhiên. Năm 1960, vào cuối tháng 10 có ba buổi biểu diễn thời trang nhỏ do Trung...

Phan Thanh Giản – Vị tiến sĩ đầu tiên đất Nam Kỳ

1. Vùng đất Lục tỉnh (Nam Kỳ) được chính thức khai khẩn kể từ khi chúa Nguyễn sai Chưởng cơ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược...

Trăn trở về thực dưỡng

TRĂN TRỞ – Tôi biết tới Tamari Gò Công không phải từ con đường tơ lụa, cũng không phải từ những quyển sách dưỡng sinh của Tiên hiền Oshawa…mà từ...

Họ Doãn làm giàu

Đời nhà Chu, có người họ Doãn chỉ chăm làm giàu. Tôi tớ trong nhà khó nhọc, vất vả, thức khuya dậy sớm. Có một tên đầy tớ tuổi già,...

Di sản Sùng Nam của văn hoá Bách Việt

Cách cư xử của người Trung Hoa mặc nhiên thể hiện tâm thức hướng Nam, hình thành văn hóa Sùng Nam do người Bách Việt lưu lại. Người Hoa có...

Cuộc sống của người dân miền Nam trước và sau thời Pháp thuộc – Phần cuối

Cuộc yết kiến Tổng trấn Lê Văn Duyệt, 2 tháng 9 Ngài Lê Văn Duyệt ngồi trên một cái bục cao có trải chiếu hoa. Chúng tôi tiến gần tới...

Vài tập tục thú vị tại Nhật Bản

Nhật Bản nổi tiếng là một đất nước giàu truyền thống văn hóa và có những phong tục tập quán độc đáo. Bởi vậy trước khi đi Nhật du lịch,...

Nhà thờ đá Bảo Nham ở xứ Nghệ

Nhà thờ đá Bảo Nham được xây vào cuối thế kỷ 19 ở Nghệ An, từng được người Pháp mệnh danh là nhà thờ “độc đáo nhất Đông Dương”. Ngoài...

Miền kí ức về Bến Bình Đông

Nằm dọc theo bờ kênh Tàu Hủ, chạy dài từ cầu Chà Và đến cầu Lò Gốm, bến Bình Đông nằm gọn thuộc khu vực quận 8, nơi có nhiều...

Điểm khác biệt lớn nhất giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân

Người xưa có câu: “Gần son thì đỏ, gần mực thì đen”, nên họ rất coi trọng việc nhìn người để kết giao. Vô luận là kết giao bạn bè, tìm kiếm bạn...

Vua Bảo Đại làm lễ tế đàn Nam Giao ở Huế năm 1933

Lế tế đàn Nam Giao là lễ tế trời đất vào mùa xuân, nghi lễ cung đình quan trọng bậc nhất triều Nguyễn vì chỉ nhà vua mới có quyền...

Trận thủy chiến Thị Nại 1801

Trận Thị Nại 1801, là trận thủy chiến dữ dội nhất, trận thư hùng quyết định, đáng được gọi là "Võ công đệ nhất" trong thời trung hưng của nhà...

Exit mobile version