Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Lăng Ông Bà Chiểu trong tâm linh người Hoa

Ngày Tết, ngày Xuân, Lăng Ông Bà Chiểu rất đông người viếng. Có người Nam Kỳ, Bắc Kỳ và cả người Tàu (bà xẩm) đi viếng, cúng tế thành tâm dữ dằn. Bạn nên nhớ cái đình Minh Hương Gia Thạnh ở Chợ Lớn Tết vắng hoe, người Tàu ít đi, họ chỉ đi chùa Tàu cúng, vậy là Lăng Tả Quân đầy người Tàu viếng. Tại sao?

Ngẫm chuyện xưa trong các đại tướng khai quốc công thần của vua Gia Long thì phe Nam Kỳ mạnh nhứt vì nhà Nguyễn trung hưng ở Phương Nam. Tả quân Lê Văn Duyệt-người hùng trận Thị Nại là người võ tướng Nam Kỳ dữ dằn nhứt. Trong khi ông Nguyễn Huỳnh Đức cũng Nam Kỳ nhưng thái độ vừa phải, làm cho trơn tru, tỏ vẻ hiền lành thì ông Duyệt cá tánh rất mạnh. Theo truyền thuyết, Lê Văn Duyệt cầm tinh Hắc hổ nên rất nóng tánh. Lê Văn Duyệt và Lê Chất cùng phe, đối chọi với phe Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường ở Bắc Thành.

Phe Gia Định mạnh nhứt vì ông Duyệt là phe làm ra tiền của, lúa gạo dồi dào, binh lính no đủ, rèn luyện hăng say, võ khí tối tân, trào đình cần Gia Định. Vì là lãnh tụ phe Nam Kỳ nên ông Lê Văn Duyệt hầu như công khai ra mặt ở vô số vụ “đại sự”, ông va chạm nhiều người và không được lòng tân quân là vua Minh Mạng. Vì Tả Quân có danh vọng với Nam Kỳ, có công nhiều lắm. Thời ông cai quản ông cho tự do thông thương, kinh tế thị trường, tự do truyền đạo. Tả Quân Lê Văn Duyệt có tầm nhìn của một người Nam Kỳ open, lòng dạ thoáng, tầm nhìn xa. Thành ra chưa có vụ cấm đạo nào dưới thời ông khi ông còn sống.

Nhìn lại lịch sử Công giáo Nam Kỳ ta thấy thánh tử đạo ở Nam Kỳ rất ít, mà có hành hình là quan từ Bắc, Trung vô, người Nam Kỳ chính là người cưu mang những giáo dân Công giáo chạy loạn vì bức đạo từ Trung Kỳ và Bắc Kỳ vô. Thanh và lương sống chung xóm, Nam Kỳ không có khái niệm xóm đạo biệt khu như Bắc Kỳ. Ðến ngày 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn (1832) Tả Quân Lê Văn Duyệt mất thì triều đình Huế ra tay “dẹp” tánh tự trị của Nam Kỳ, bắt đầu đánh vào cá nhân Tả Quân. Vụ binh biến thành Phiên An của Lê Văn Khôi nổ ra và kéo dài từ năm 1833-1835. Huế dẹp được nhưng triều đình cũng một phen xất bất xang bang.

Cả thảy 1.831 người trong thành đều bị chém đầu và vùi xác chung trong một hố ở Đồng Tập Trận gọi là Mả Ngụy – Mả Biền Tru. Trong đó có 800 người Tàu. Sử chép có một người tên “Bốn Bang” trước khi chết để lại bài thơ lục bát dài 308 câu kể lại sự kiện gọi là “Bốn Bang thư”, bài thơ này là của ông Lưu Hằng Tín. Xin nhớ, Bốn Bang không phải tên người nào riêng lẻ, là bốn bang hội của người Tàu gồm Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu và Hải Nam. Tức là hiểu rằng có 4 bang hội Tàu hỗ trợ tài chánh và nhơn lực cho Lê Văn Khôi. Triều đình áp giải về Huế xét xử và tử hình lăng trì, bêu đầu 8 người, cầm đầu trong đó có Lê Văn Cù – con trai 7 tuổi của Lê Văn Khôi (Khôi đã chết trước đó), một giáo sĩ Pháp tên Marchand (Cố Du), hai người Tàu tên Mạch Tấn Giai (người Tiều) và con trai nhỏ của ông này, Lưu Hằng Tín (người Quảng). Sau khi bêu đầu thì xác được đưa trả về Nam chôn. Đại diện bang hội Tàu có thể thấy là ông Lưu Hằng Tín và Mạch Tấn Giai. Lưu Hằng Tín có lẽ là bang chủ Quảng Đông, lúc Tổng trấn Lê Văn Duyệt còn tại thế ông này cũng là con nuôi của ông Duyệt.

Chúng ta biết cuộc nổi loạn Lê Văn Khôi bắt nguồn từ chính sách triệt phiên, cấm đạo, nuốt hết lợi ích Nam Kỳ và bế quan tỏa cảng của vua Minh Mạng. Những cái này ông Duyệt còn sống lại cho tự do. Phe Lê Văn Khôi bao gồm: Dân điền chủ Nam Kỳ, Cố đạo, giáo dân Công giáo, người Tàu bốn bang – kể cả con cháu Mạc Cửu ở Hà Tiên, người Miên (con trai ông Nguyễn Văn Tồn ở Trà Ôn), Tiểu vương Chàm ở trấn Thuận Thành (Bình Thuận) một số người dân tộc ở Tây Nguyên cũng có dính líu. Vua Gia Long vì được người Tàu Minh Hương giúp trung hưng nhà Nguyễn nên ông có chánh sách “nhẹ tay”, Minh Hương được miễn lao dịch và miễn thuế thân. Năm 1824, Minh Mạng buộc tất cả người Tàu di cư phải đóng thuế thân kể cả người Minh Hương, Lê Văn Duyệt phản đối. Lê Văn Duyệt cũng chống lịnh cấm đạo Thiên Chúa, chống chủ trương trọng nông ức thương của Minh Mạng. Minh Mạng chủ trương triệt luôn quyền tự trị của người Chàm ở trấn Thuận Thành, ông Duyệt cũng phản đối. Khi ông Duyệt còn sống, biết lão thần có uy tín lớn nên vua làm ngơ, khi ông Duyệt vừa qua đời thì vua Minh Mạng ra tay.

Trong đoạn văn sau trích trong “Ngọn cỏ gió đùa” sẽ thấy Hồ Biểu Chánh viết về vụ Lê Văn Khôi rất tự hào. Vua Minh Mạng kêu là “giặc Khôi”, “mả Ngụy” nhưng Hồ Biểu Chánh lại ca ngợi những người làm binh biến đó là “bậc nghĩa sĩ anh hùng”, ca ngợi họ là “anh hùng vì ân nghĩa, vì phẩm giá mà nổi lên, chớ không phải là muốn cướp giựt của lương dân, hay là muốn khuấy rối trong xã hội”. Chữ “độc lập” được Hồ Biểu Chánh nhấn mạnh với ông Lê Văn Khôi. Hồ Biểu Chánh cũng tự hào kể xuất thân Bắc Kỳ của Lê Văn Khôi.

Trong mắt dân Nam Kỳ, hễ ai sống chết đứng lên bảo vệ sự độc lập, giữ quyền lợi cho xứ Nam Kỳ thì không kể xuất thân, thành dân Nam Kỳ hết ráo trọi. Hồi xưa sao thì bây giờ con cháu cũng sẽ nhứt định như vậy. Mời bạn đọc lại khúc văn sau: “Người đời nay ai nghe nói ‘Giặc Khôi’ thì cũng tưởng là giặc chòm giặc khóm, tùng tam tụ ngũ rồi nổi lên đặng cướp giựt của lương dân, hoặc khuấy rối trong thôn xã. Có người không rõ căn nguyên lại khinh khi Lê Văn Khôi đến nỗi con hư thì mắng nó là đồ ‘Ngụy Khôi đầu thai’ coi Khôi như người nghịch của mình, tưởng Khôi là một tên đê tiện”.

Ông Hồ Biểu Chánh lý giải một hồi căn nguyên rồi ông chép vầy: “Giặc anh hùng vì ân nghĩa, vì phẩm giá mà nổi lên, chớ không phải là muốn cướp giựt của lương dân, hay là muốn khuấy rối trong xã hội”. Sau khi dẹp xong vụ binh biến của Lê Văn Khôi thì vua Minh Mạng kết án Lê Văn Duyệt có bảy tội đáng xử chém, hai tội đáng xử thắt cổ, một tội đáng xử sung quân. Kết luận: “Còn cái xương khô trong mả không thèm gia hình” nên chỉ sai san phẳng nấm mộ, dựng bia đề tám chữ “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (Nơi tên hoạn quan chuyên quyền Lê Văn Duyệt chịu tội). Thành ra Tả Quân Lê Văn Duyệt càng bị hạ nhục, bị xử khi đã chết thì cái tiếng linh của ông càng lan rộng trong dân gian. Một thời gian mồ mả bị san bằng xiềng xích càng làm tánh linh thiêng của ông rộng ra dân gian. Chưa có một ông quan nào có địa vị tâm linh dữ dằn như ông Lê Văn Duyệt. Dân kể giai thoại rằng những năm 1950 vua Thành Thái dịp Tết nọ lơn tơn đi chơi Lăng Ông, có ai đưa cho cựu hoàng cây nhang, ông nói rằng: “Nó (Ông Duyệt) phải lạy tao chứ tao không lạy nó”.

Có chuyện truyền rằng vua Thành Thái vào Nam Kỳ đi ngang Lăng Ông thì xe hơi bị chết máy, Thành Thái phải sai bỏ cái xiềng trên mộ ông mới nổ máy được (nhưng thực tế cái xiềng ấy đã được bỏ đi từ đầu đời Tự Đức). Lăng Ông linh thiêng trong lòng dân Nam Kỳ, người Tàu Chợ Lớn kêu là “Lăng của phò mã gia gia”, nghĩa là “Lăng của cha ông phò mã”. Tả Quân Lê Văn Duyệt là hoạn quan nên không có con. Ông nhận Nguyễn Hữu Khôi từ Bắc Kỳ vô làm con nuôi đổi tên là Lê Văn Khôi, cha này là dũng tướng. Con thừa tự của ông Duyệt là cháu kêu là bác, con trai em ông Duyệt. Lê Văn Yến con trai “Ông Tả Dinh” Lê Văn Phong được thừa tự bác ruột, vua Gia Long gả công chúa Ngọc Ngôn và trở thành Phò mã đô úy. Có một bài văn tế “chửi” lại người Tàu tham gia vụ binh biến, bài “Văn đĩ tế chệc ngụy” không biết tên tác giả, nhưng đoán là phe vua Minh Mạng làm ra. Trương Vĩnh Ký sưu tầm và chú thích là “Nguyên chệc Sài Gòn theo giặc Khôi bị chết trận, sấp đĩ nhạo chơi”.

Nguyên văn bài chửi:

Văn đĩ tế chệc ngụy

“Hỡi ôi!
Đứng trước bờ sông quẹt nước mắt, khóc mà than rằng
Tánh tình vốn khác người ta ai ai mà chẳng có tình, tình vốn trời sanh tình ấy nặng
Sống thác ở trong vòng tạo, ai ai mà không có thác, thác nhăn răng trắng thác mà thương.
Nát gan ruột những cám câu sơn hải
Tưởng đầu đuôi khôn xiết nỗi tang thương.
Nhớ các hia xưa:
Những người phụ ký
Mấy kẻ huyền dương
Kể từ thủa Bắc Kinh buồm nhẹ
Những đến ngày Nam quốc tàu sang.
Hoặc bôn Châu Đốc Nam Vang, chèo xạc xạc chiếc lên chiếc xuống
Hoặc ở Sài Gòn Bến Nghé, tiếng xô xô bán kẹo bán đường.
Chơn đạp hài Ngô đỏng đảnh
Tay cầm điếu khách xinh xoang.
May đâu dì gió xe dây, duyên cá nước đó đây sum hiệp
Tượng bởi chị trăng ép số, nghĩa keo sơn nam bắc tơ vương.
Dập dìu khi Chợ Lớn đi về, đầu gối tay ấp
Hớn hở cầu lầu khuya sớm, cổ hót lưng choàng.
Thiếp dầu một cắc cũng nên hai cắc cũng nên, coi nhau bằng ngọc
Hia có năm tiền cũng vậy ba tiền cũng vậy, trọng nghĩa như vàng.
Kìa nệm lót nọ áo chiên, thiếp đâu quản vai mang đầu đội
Sớm quạt long trưa áo quạ, thiếp nào nài tay xách nách mang.
Đòi khi mưa đất giông trời, thang thuốc hốt sợ hia muôn một
Đến lúc sương thu nắng hạ, cơm cháo không rời lứ tấc gang.
Người chẳng thương kêu những con đĩ thằng Ngô, thiếp bao quản tiếng qua cửa miệng
Kẻ còn nghĩ gọi ả thô chú chệc, thiếp đã đành nghĩa tạc trong xương.
Những tưởng qua ngày qua tháng
Hầu mong chung chiếu chung giường.
Nào nghĩ buổi bụi nhơ một cuộc
Bỗng nghe lời sóng gió bốn bang.
Liều phố xá bỏ cửa nhà, vác đinh ba lên đường ngơ ngẩn
Ném đôi quang quăng đòn gánh, cầm con chèo xuống thủy chầm chơn.
Ấy công chi ấy nghiệp chi, nghe mưu quấy núp hầm sâu múa súng
Làm nhăng vậy làm khùng vậy, đến kế cùng dựa vách kín đâm quàng.
Hoặc bà con Thiên địa hội ngày xưa, quen thói muốn hành cưỡng hành kiếp
Hay đảng lũ Tập Đình hầu thủa nọ, mông lòng gây tương tặc tương tàn.
Bởi làm quấy mới lâm hoạn họa
Dễ vô can mà mắc tai ương.
Quan binh rung trống trận ba hồi, nghe dớn dác khự tố lô lập cập
Quan binh tống thiên oai một phát, la ải ôi xẩy ngộ lớ ngổn ngang.
Chẳng biết mấy lâm vong thỉ thạch
Kể xiết bao mắc án đao thương.
Hia mất mũi hia mất tai, khôn nhận dấu mướn người lấp đất
Hia trôi sấp hia trôi ngửa, khó nhớ hình thiệt tích để tang.
Hờn lũ quạ nhòm ỳ ầm cụm lác
Giận bầy bên bay sập biên giang.

Ôi!
Canh gà eo óc
Hồn bướm mơ màng.
Ngày Cầu Khất lóng quyên hút gió
Đêm Ngã Tư nghe nhạn kêu sương.
Thương là thương ngày năm mười mặt ngồi chơi, mời uống mời ăn, vui trong tiệc mừng người bổn địa
Thảm bấy thảm rày bảy ba đuôi cột xíu, xách xuôi xách ngược, xô xuống sông làm ủy tha hương.
Còn rải rác đầy ngòi đầy lạch
Hãy bộn bề lấp hố lấp mương.
Ngày trông mặt nước đầy vơi, tưởng tới hia ân tình đau mấy đoạn
Đêm nghĩ việc đời dài vắn, khôn ngăn thiếp châu lụy rưới đôi hàng.
Phải chi cà đã héo mướp đã xơ, duyên lợt dám trách trời xanh rúng rẩy
Song hãy nguyệt đương tròn huê đương nở, má hồng mà đeo phận bạc dở dang.
Nghe ngoài bắc Hàng Chỉnh Cầu Xây, xôn xao trước trước (trúc trúc) mai mai, chị em sao vui chầu bán đắt
Nghe trong quãng Cây Me Phố Lở, tụ tập anh anh én én, chị em sao tốt số may hàng.
Họa lũ thiếp tiền căn nghiệp báo
Khiến các hia hậu kiếp chịu oan.
Từ nay mà vắng hia, ngày tiết Trung thu, tiết Trùng cửu, tiết Đông chí, tiết Thanh minh, khôn mượn kẻ phô diên bày tiệc
Từ này mà không chệc, ngày chùa ông Quan, chùa ông Bổn, chùa Bà Châu, chùa Bà Chúa, biết cậy ai đốt pháo dưng hương.
Quặn dạ khi lửa tắt ngồi thầm, vắng ngoài cửa vắng tiếng giày lẹp quẹp
Thúc long thuở tầng cao bước dạo, nghe trên lầu không đờn gảy xuế xoang.
Vì ai khiến chữ dươn (duyên) chính mác
Vì ai xui đường nghĩa lỡ làng.
Nhớ anh em thì Ba Thắc Bảy Xàu, nghe tiếng ngụy mấy người ngao ngán
Tưởng anh em cũ thì Trà Vinh Mân Thít, cũng hiệp đoàn một trận tan hoang.
Ngày sáu khắc tới lui hổ thẹn
Đêm năm canh ngồi đứng bàng hoàng.
Hầu mong mượn chút khoe khoang, thì đã vắng ốn nha xính xáng
Cũng muốn vui chơi trò chuyện, thì lại không Bắc thuận Hồi lương.
Ôm phận thiếp thừ nay vò võ
Tống các hia gọi chút thường thường.
Hoặc hồn về Quảng Đông hoặc hồn về Triều Châu, chẳng biết đưa chi, đốt quýnh quáng ba cây hương bổi
Hoặc hồn về Hải Nam hoặc hồn về Phước Kiến, gọi chút tình vậy, uống xì xà vài chút rượu tàn.
Ải ôi thương thay!
Có linh xắng xái”.

Ý nghĩa của luân hồi là gì?

Linh hồn hoặc nguyên thần của một người sẽ rời khỏi thân thể khi sinh mệnh kết thúc, và sẽ một lần nữa xuất hiện ở một sinh mệnh khác,...

Nguồn gốc nghi thức lên đồng

Lên đồng là phương thức khai thông với thần linh được sáng tạo và sử dụng sớm nhất của các dân tộc tin theo Shaman giáo. Vì sao phải lên...

Sự thật hình tượng Quan Vũ thời Tam quốc

Quan Vũ là danh tướng thời Tam quốc có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, nhưng trên thực tế, con người ông liệu có...

Bùi Viện – Người phát triển thủy quân dưới triều Nguyễn

Bùi Viện (1839 - 1878) là danh sĩ đời Tự Đức, hiệu Mạnh Dực, người làng Trình Phố, huyện Kiến Xương (nay thuộc xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh...

Những bức ảnh về một Sài Gòn xưa rợp bóng cây

Hàng me cổ thụ xanh rì, cây gòn trăm tuổi như ông lão áo mão tôn nghiêm, hàng xà cừ đại thụ… mang đến không gian trong lành cho đường...

Chuyện về chiếc bình vôi xưa

Theo truyền thuyết, tục ăn trầu của người Việt đã có từ thời vua Hùng Vương thứ IV, theo đó chiếc bình vôi có thể đã có mặt từ thời...

Bộ ảnh miền Trung những năm 70

Những bức ảnh cho ta thấy một miền Trung với những cảnh sinh hoạt bình dị của người dân trên dải đất đầy nắng và gió. Miền Trung thường được...

Xe không chạy trên sông sao gọi xe đò?

Có lần tôi hỏi nhà văn Sơn Nam khi gặp ông ở quán cà phê vỉa hè trước Nhà Văn hóa quận Gò Vấp cách nay hai mươi năm. Trong...

Những câu nói ý nghĩa làm thay đổi cuộc đời bạn

Những câu nói ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống, chứa đựng bên trong là biết bao ý nghĩa, triết lý về cuộc sống, bạn chỉ mất vài phút...

Xích Lô Hà Nội

Trong tâm khảm của người dân Việt Nam, đâu đó vẫn còn hình dáng chiếc xe xích lô, một thời đưa đi đón về những thực khách nội địa và...

Kỷ niệm với nhạc sĩ Minh Kỳ

“Chiều mưa phố xưa u buồn, có ai mong đợi Một người biền biệt nơi mô, Để nhớ với thương một người…” Bài hát như những giọt mưa ngắn dài...

Tổng kho Long Bình – căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ ở Việt Nam

Với diện tích 24 km2 và “dân số” 60.000 người, tổng kho Long Bình có quy mô không khác gì một thành phố của Mỹ ngay cạnh Sài Gòn thời...

Exit mobile version