Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Chùa Tam Tông Miếu. Đã “chùa” sao lại còn “miếu”?

Nghe 3 chữ “Tam Tông Miếu” mọi người ở miền Nam, đều nghĩ ngay đến một loại lịch dùng để xem ngày tốt xấu. Một số ít người khác biết thêm rằng đây là tên một ngôi chùa ở đường Cao Thắng, Sài Gòn, nơi biên soạn và phát hành những bộ lịch này trước 1975.

Ấy, xin dừng lại một chút ở cái tên Chùa Tam Tông Miếu. Đã “chùa” sao lại còn “miếu”? Bạn có thấy kỳ không?

Nói thiệt, cho tới gần đây, tui vẫn nghĩ Tam Tông Miếu là một ngôi chùa, tức là nơi thờ Phật. Nhưng đi tới nơi rồi, tìm hiểu thêm thì mới biết không phải. Tam Tông Miếu đâu phải là ngôi chùa Phật giáo! Vậy Tam Tông Miếu là gì?

Tam Tông Miếu là cơ sở tín ngưỡng của Minh Lý đạo, và tên chính thức Minh Lý đạo gọi nơi đây là: Thánh Sở Tam Tông Miếu.

Sự hình thành Minh Lý đạo

Minh Lý Đạo hay Đạo Minh Lý, nói tắt là Minh Lý, là một chi trong Ngũ Chi Minh Đạo, gồm: Minh Sư, Minh Đường, Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân. Tuy nhiên, trong ngũ chi này hiện nay dường như chỉ còn Minh Lý tồn tại độc lập (?).

Bắt nguồn từ đầu những năm 1920, ông Âu Kiệt Lâm (1896 – 1941), người gốc Minh Hương, cùng một số thân hữu vốn là trí thức, công chức đã tập trung và cùng nghiên cứu, tìm hiểu về giáo lý của tam giáo: Thích – Lão – Nho, mua sách từ Pháp nghiên cứu về nhân điện. Đến năm 1924, những người đó đã giác ngộ chơn lý của đạo và sáng lập tôn giáo lấy tên là Minh Lý đạo.

Đêm 27/11 Giáp Tý (23/12/1924) (thuộc tháng Bính Tý, ngày Bính Tý, giờ Mậu Tý), Minh Lý Đạo Khai Minh tại Thiên Bàn nhà Ngài Âu Minh Chánh.

Trong tên Minh Lý Đạo, Minh có nghĩa là thông hiểu nhận biết rõ ràng, Lý là lẽ phải tuyệt đối. Minh Lý là thông hiểu đến sự tuyệt đối đạt tới lẽ phải mà thành đạo.

Sáu vị chức sắc khai đạo Minh Lý gồm có ông Âu Kiệt Lâm (pháp danh Minh Chánh), ông Nguyễn Văn Xưng (Minh Giáo), ông Nguyễn Văn Đề (Minh Đạo), ông Lê Văn Ngọc (Minh Truyền), ông Nguyễn Văn Miết (Minh Thiện), ông Võ Văn Thạnh (Minh Trực). Trong 6 vị này, sau ngài Âu Minh Chánh (chủ trì từ đầu đến 1938) thì ngài Minh Thiện (chủ trì từ 1938 đến khi quy tiên năm 1972) là người góp công sức lớn nhất cho việc phát triển Minh Lý đạo.

Xây dựng Tam Tông Miếu

Sau khi khai đạo cuối năm 1924, Minh Lý đạo chưa có nơi để tụ tập lễ bái, tu học… Chư vị sau đó được trụ trì Linh Sơn Tự (đường Cô Giang) cho mượn chùa làm nơi lễ bái, tụng kinh. Cũng chính do mượn chùa, các đạo hữu phải tránh các ngày rằm và mùng Một – nhường cho gia chủ – nên lệ cúng hằng tháng vào các ngày 14 và 30 âm lịch còn giữ đến nay.

Nhờ ông bà Trần Kim Ký hiến đất vùng Bàn Cờ (lúc ấy trước chùa chỉ là một con hẻm đất, sau mới mở thành đường Cao Thắng) cùng một số vị khác giúp một phần tài chánh, ngày 10/8/1926 ngôi chùa của Minh Lý đạo đặt viên đá đầu tiên. Cuối tháng 1/1927 việc xây dựng hoàn tất. Ngày 2/2/1927 khai buổi cúng đầu tại chùa mới

Theo tư liệu của Minh Lý đạo, khi chuẩn bị xây dựng, Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng đàn ban đạo hiệu chùa là Tam Tông Miếu. Trong đó:

Tam: là Tam thể đồng nhứt; Tam giáo đồng nguyên.

Tông: là thừa kế, tiếp nghiệp của Tổ truyền.

Miếu: là tòa ngự của các Đấng Thiêng Liêng tại thế.

Ngôi Tam Tông Miếu có dáng như ngày nay được trùng tu năm 1957..

Một số đặc điểm của Minh Lý đạo

Minh Lý đạo có một số điểm tương đồng với đạo Cao Đài, tuy nhiên không phải Minh Lý đạo chịu ảnh hưởng của Cao Đài (dù rằng xét về quy mô số tín đồ Minh Lý đạo nhỏ hơn rất nhiều so với Cao Đài), mà ngược lại. Minh Lý khai đạo năm 1924, còn Cao Đài khai đạo năm 1926. Ngũ Chi Minh Đạo, trong đó có Minh Lý, có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển của đạo Cao Đài.

Những điểm tương đồng giữa Minh Lý đạo và đạo Cao Đài là:

Cùng hình thành vào khoảng giữa thập niên 1920, do những vị khai đạo là trí thức, công chức (cho chính quyền Pháp).
Kinh sách, các lời dạy của Đạo được Ơn trên (các đấng thiêng liêng) ban cho bằng cách giáng cơ (cơ bút, cầu cơ – Minh Lý đạo phân biệt khá kỹ các dạng cầu huyền cơ, đại ngọc cơ, xin phép không ghi lại đây).
Minh Lý đạo chủ trương Tam giáo đồng nguyên (Phật – Nho – Lão), Cao Đài cũng vậy, nhưng thêm cả Cơ Đốc giáo và Hồi giáo.
Kinh của Minh Lý đạo hoàn toàn dùng tiếng Việt để người đọc dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc. Bộ kinh được chia làm 5: Kinh Bố cáo, Kinh Sám hối, Kinh Tịnh nghiệp vãn, Kinh Nhựt tụng, Kinh Giác thế. Một số bài kinh của Minh Lý đạo được đạo Cao đài sử dụng như bài Niệm hương, Bài Khai kinh, Kinh sám hối…

Không giống Phật giáo, Minh Lý đạo không thờ thánh tượng hoặc hình ảnh mà chỉ thờ bài vị. Gian chính của Tam Tông Miếu không gọi là chánh điện mà là bửu điện. Bửu điện của Minh Lý đạo là Thiên bàn có 5 cấp: Cấp thứ nhất thờ bài vị Diêu Trì Kim Mẫu; cấp thứ hai thờ bài vị Ngọc hoàng Thượng đế, Hồng quân Lão tổ; cấp thứ ba thờ Tam Giáo tổ sư (Phật Thích Ca, Thái Thượng Lão quân (Lão tử), Khổng tử); cấp thứ tư thờ Tứ đại Bồ tát (Địa tạng Bồ tát, Văn Thù Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Quan Âm Bồ tát); cấp thứ năm thờ 7 bài vị của Ngũ đẩu Tinh quân và chư Phật, chư Tiên.

Đạo phục của Minh Lý đạo là: nam mặc áo dài đen, quần trắng, khăn đóng đen; nữ mặc áo dài đen, quần đen (Cao Đài là áo trắng, quần trắng). Môn sanh (không gọi là tu sĩ) cũng vẫn để tóc, không cạo đầu như đạo Phật.

Tâm vé vào đời – Câu chuyện nhân văn sâu sắc về cái tâm củα một con người

Những câu chuyện về lòng tốt bây giờ thường bị xem như là cổ tích. Nhưng, đây là một câu chuyện hoàn toàn có thật. Buổi tɾưα, tại sân gα...

Con đường trung tâm thương mại của Sài Gòn ngày trước

Cũng như Catinat (Đồng Khởi) và Charner (Nguyễn Huệ), một số nhân vật để lại dấu ấn trên đại lộ Bonard (Lê Lợi ngày nay) như bác sĩ Theodose Dejean...

Nhất nghệ tinh nhất thân vinh

Tuy sách vở không kê khai rõ ràng nhưng có thể nói rằng nước ta vốn có nhiều nghề. Đời Lý, có thợ bách tác (làm trăm thứ). Thời Pháp...

Những hình ảnh cực hiếm về phụ nữ nông thôn Việt Nam 100 năm trước

Những bức ảnh chụp vào đầu thế kỷ 20 đã khắc họa được chân dung và đời sống sinh hoạt, trang phục, sắc đẹp của phụ nữ nông thôn Việt...

Sài Gòn xưa nay một góc ảnh

Trong bài viết này, xin mời các bạn xem lại những tấm hình thú vị được chụp để so sánh góc ảnh tại cùng 1 vị trí của Sài Gòn...

Thăm ngôi chùa quan trọng nhất ở CHDCND Triều Tiên

Chùa Pohyon huyện Hyangsan (Phyongan­buk), được xây dựng đầu thế kỷ 11, là trung tâm phật giáo lớn nhất miền Bắc Triều Tiên. Chùa từng bị bom đạn tàn phá...

Giải mã lăng Hùng Vương

Trong bức ảnh đính kèm theo đây là kiến trúc gì, toạ lạc tại đâu và được xây cất vào niên đại nào? Ba chữ Hán ở giữa phần trên...

Lá dó

Bài này nói sự khôn khéo chỉ làm trò chơi được một lúc, không đáng chuộng bằng sự thực dụng làm lợi cho mọi người được lâu dài. Nước Tống có...

Một thời đại học

Mươi năm trước có dịp đi qua chốn cũ thì vật đổi sao dời (Hương Lộ 14 nay là đường Lũy Bán Bích), không còn thấy nhà máy đâu nữa....

Thành ngữ “Ngựa Quen Đường Cũ”

Ngày nay người ta thường sử dụng câu: "ngựa quen đường cũ" để chỉ những người chứng nào tật nấy. Dù có hứa cải thiện cỡ nào cũng vẫn sa...

Lợi mê lòng người, quên cả phải trái

Nước Tống có kẻ mất cái áo thâm. Anh ta ra đường tìm. Thấy người đàn bà mặc áo thâm, níu lại đòi rằng: "Tôi vừa mất cái áo thâm,...

Ngô Thì Nhậm – Khuôn mặt trí thức lớn thời Tây Sơn

Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Ngô Thì Nhậm là một nhân vất lịch sử gây nhiều tranh luận, một người có “vấn đề”. Gây tranh luận chẳng những do...

Exit mobile version