Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Khái quát về chính quyền Mỹ – Chương 1: Hiến pháp: Một văn kiện trường tồn

Chương 1: Hiến pháp: Một văn kiện trường tồn

“ … Điều khoản này được đưa vào một bản Hiến pháp, được xây dựng với dụng ý sẽ trường tồn qua nhiều thời đại và do đó thích ứng được với những khủng hoảng khác nhau trong các vấn đề của con người”
– John Marshall, Chánh án Tòa án Tối cao,
phát biểu trong vụ McCulloch kiện bang Maryland, 1819

Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ là công cụ trung tâm của chính quyền Hoa Kỳ và là bộ luật tối cao của đất nước. Trong 200 năm qua, Hiến pháp đã định hướng cho sự tiến hóa của các thể chế chính quyền và tạo cơ sở cho ổn định chính trị, tự do cá nhân, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.

Hiến pháp Hoa Kỳ là bản hiến pháp thành văn lâu đời nhất thế giới vẫn còn hiệu lực, một hiến pháp từng được dùng làm mô thức cho một số hiến pháp khác trên thế giới. Sở dĩ bản Hiến pháp này có được sức trường tồn chính là nhờ tính đơn giản và linh hoạt của nó. Khởi thủy được soạn thảo vào cuối thế kỷ XVIII nhằm tạo khuôn khổ cho việc cai quản 4 triệu dân của 13 bang rất khác biệt nhau nằm trên bờ Đại Tây Dương, những điều khoản cơ bản của bản Hiến pháp này đã được xây dựng vững chãi đến mức chỉ với 27 điều sửa đổi, hiện nay nó có thể đáp ứng nhu cầu của hơn 260 triệu người dân Mỹ tại 50 bang còn đa dạng nhiều hơn nữa, trải dài từ Đại Tây Dương cho đến Thái Bình Dương.

Con đường dẫn đến bản Hiến pháp không hề thẳng tắp hay suôn sẻ. Phải đợi mãi đến năm 1787, sau khi đã trải qua những cuộc tranh luận sôi nổi và một thời gian tồn tại 6 năm của một hình thái liên bang ban đầu, mới xuất hiện được một văn kiện dự thảo. Năm 1776, 13 thuộc địa của Anh tại châu Mỹ tuyên bố độc lập đối với mẫu quốc. Trước đó một năm, nổ ra chiến tranh giữa các thuộc địa với nước Anh, một cuộc chiến tranh giành độc lập kéo dài trong sáu năm khốc liệt. Ngay trong khi đang còn chiến tranh, các thuộc địa – giờ đây tự gọi là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ – đã thảo ra một thỏa thuận ngắn gọn liên kết họ lại thành một quốc gia. Thỏa thuận ngắn gọn này, gọi là “Điều lệ Liên bang và Liên minh vĩnh cửu”, được thông qua tại một đại hội của các bang vào năm 1777, và được chính thức ký kết vào tháng Bảy năm 1778. Điều lệ này bắt đầu có hiệu lực sau khi được Maryland, bang thứ 13, phê chuẩn vào tháng 3 năm 1781.

Điều lệ Liên bang tạo ra một liên minh lỏng lẻo giữa các bang và thiết lập một chính quyền liên bang với những quyền lực rất hạn chế. Trong các vấn đề tối quan trọng như quốc phòng, tài chính và thương mại, chính quyền liên bang phải lệ thuộc vào các cơ quan lập pháp của các bang. Đó không phải là một cách tổ chức có khả năng dẫn tới ổn định và sức mạnh. Chỉ  sau một thời gian ngắn, mọi người đều thấy rõ những mặt yếu của Liên bang. Về phương diện chính trị và kinh tế, quốc gia mới hình thành này hầu như rơi vào cảnh hỗn loạn. Nói như George Washington, người sau này trở thành tổng thống đầu tiên của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ vào năm 1789, 13 bang được liên kết với nhau chỉ “bởi một sợi dây bằng cát”.

Chính trong tình huống không báo trước điều gì tốt đẹp này, Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ được xây dựng. Tháng Hai năm 1787, cơ quan lập pháp của nền cộng hòa, gọi là Continental Congress (Đại hội lục địa), kêu gọi các bang cử đại biểu tới Philadelphia thuộc bang Pennsylvania để xem xét lại bản Điều lệ này. Hội nghị Lập hiến được triệu tập vào ngày 25 tháng Năm 1787 tại Hội trường Độc lập, nơi 11 năm trước, bản Tuyên ngôn Độc lập đã được thông qua vào ngày 4 tháng Bảy năm 1776. Mặc dù các đại biểu chỉ được ủy quyền sửa đổi Điều lệ Liên bang, nhưng họ đã gạt hẳn bản đó sang một bên và bắt tay vào xây dựng một hiến chương cho một hình thức chính quyền tập trung hơn và hoàn toàn mới. Văn kiện mới này, tức Hiến pháp, được hoàn thành vào ngày 17 tháng Chín năm 1787, và được chính thức thông qua vào ngày 4 tháng 3 năm 1789.

55 đại biểu dự thảo Hiến pháp bao gồm hầu hết những nhà lãnh đạo lỗi lạc, còn gọi là các Nhà khai quốc, của quốc gia mới. Họ đại diện cho rất nhiều lợi ích, nguồn gốc xuất thân và địa vị khác nhau. Tuy nhiên, tất cả đều tán thành các mục tiêu trung tâm được thể hiện trong lời mở đầu của Hiến pháp: “Chúng tôi, những người dân Hợp chúng quốc, nhằm mục đích hình thành một liên bang hoàn hảo hơn, thiết lập công lý, bảo đảm sự bình yên trong nước, chu cấp cho sự phòng thủ chung, đẩy mạnh phúc lợi chung, và đảm bảo lợi ích của tự do cho bản thân chúng ta và cho các thế hệ mai sau, quyết định xây dựng và ban hành bản Hiến pháp này của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ”.

Thống nhất một dân tộc đa dạng

Mục tiêu trên hết của Hiến pháp là tạo ra một chính quyền dân cử vững mạnh, trực tiếp đáp ứng ý nguyện của nhân dân. Khái niệm tự trị không phải bắt nguồn từ người Mỹ; thực vậy, một mức độ tự trị nhất định đã tồn tại ở Anh lúc bấy giờ. Nhưng mức độ mà Hiến pháp đặt Hợp chúng quốc dưới sự cai quản của nhân dân là chưa từng có, có thể nói là mang tính cách mạng so với các chính quyền khác trên khắp thế giới. Vào thời gian Hiến pháp được thông qua, người Mỹ đã có rất nhiều kinh nghiệm trong nghệ thuật tự trị. Từ lâu trước khi độc lập được tuyên bố, các thuộc địa đã là những thực thể hoạt động như những đơn vị chính quyền, đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân. Và sau ngày bắt đầu Cách mạng – từ ngày 1-1-1776 đến 20-4-1777 – 10 trong số 13 bang đã thông qua hiến pháp riêng của mình. Hầu hết các bang đã có một thống đốc bang do cơ quan lập pháp của bang bầu ra. Bản thân cơ quan lập pháp này được bầu ra bằng phổ thông đầu phiếu.

Bản Điều lệ Liên bang đã tìm cách thống nhất những bang tự trị này. Ngược lại, bản Hiến pháp thiết lập một chính quyền trung ương, hay liên bang, hùng mạnh với nhiều quyền lực rộng rãi trong việc quản lý các mối quan hệ giữa các bang, và chịu trách nhiệm hoàn toàn trong các lĩnh vực như ngoại giao và quốc phòng.

Đối với nhiều người, tập trung hóa là điều khó chấp nhận. Phần lớn những người định cư tại Mỹ là những người dân châu Âu đã rời bỏ quê hương mình để thoát khỏi sự áp bức về tôn giáo và chính trị, cũng như thoát khỏi những khuôn mẫu kinh tế cứng nhắc của Thế giới Cũ trói buộc con người vào một địa vị nhất định trong cuộc sống mà không đếm xỉa đến tài năng hay nghị lực của họ. Những người định cư này tôn vinh quyền tự do cá nhân và họ tỏ ra cảnh giác đối với bất kỳ thứ quyền lực nào – nhất là quyền lực của chính quyền – có thể sẽ cắt xén các quyền tự do cá nhân.

Sự đa dạng của quốc gia mới cũng là một trở ngại rất lớn đối với sự thống nhất. Những người được Hiến pháp trao cho quyền bầu cử và kiểm soát chính quyền trung ương ở thế kỷ XVIII đại diện cho nhiều nguồn gốc xuất thân, tín ngưỡng và lợi ích khác nhau. Hầu hết họ đến từ nước Anh, nhưng cũng từ cả Thụy Điển, Na Uy, Pháp, Hà Lan, Phổ, Ba Lan, và nhiều nước khác cũng đã gửi người nhập cư đến Thế giới Mới. Tín ngưỡng tôn giáo của họ rất đa dạng và phần lớn vẫn được duy trì mạnh mẽ. Có những người Anh giáo, Thiên Chúa giáo La Mã, có những tín đồ Calvin, những người Pháp theo đạo Tin Lành, những người theo giáo phái Tin Lành của Martin Luther, những tín đồ giáo phái Quaker, những tín đồ Do Thái giáo. Trên phương diện kinh tế và xã hội, người dân Mỹ bao gồm từ tầng lớp qúy tộc điền địa tới thành phần nô lệ và những người hầu làm thuê trả nợ. Nhưng xương sống của đất nước này là tầng lớp trung lưu – điền chủ, thương nhân, thợ cơ khí, thủy thủ, thợ đóng tàu, thợ dệt, thợ mộc và nhiều loại người khác.

Người dân Hoa Kỳ lúc đó, cũng như hiện nay, có những ý kiến rất khác nhau về hầu như mọi vấn đề, kể cả ý kiến về việc thoát khỏi Đế chế Anh. Trong thời gian diễn ra Cách mạng Mỹ, một số đông những người trung thành với Đế chế Anh – gọi là những người bảo thủ, những người Tory – đã rời bỏ đất nước tới định cư phần lớn tại miền đông Canađa. Những người ở lại lập ra một khối đối lập khá mạnh, mặc dù giữa họ với nhau cũng có những bất đồng về lý do chống đối cách mạng cũng như việc cần có những thỏa hiệp nào với nền cộng hòa mới ở Mỹ.

Trong hai thế kỷ qua, tính đa dạng của người Mỹ đã tăng lên, thế nhưng tính thống nhất cơ bản của đất nước này còn trở nên mạnh mẽ hơn nữa. Trong suốt thế kỷ XIX và bước sang thế kỷ XX, một dòng người nhập cư bất tận đã đóng góp những tài năng và những di sản văn hóa của họ cho đất nước đang lớn mạnh này. Những người tiên phong đã vượt qua dãy núi Appalachian miền đông đến định cư tại Thung lũng Mississippi  và Đại Bình Nguyên ở trung tâm của lục địa, rồi vượt qua dải Rocky Moutains tới được bờ Thái Bình Dương – cách xa vùng duyên hải Đại Tây Dương do những người khai hoang đầu tiên lập ra tới 4.500 kilômét về phía tây. Và cùng với sự mở rộng của đất nước, mọi người cũng thấy được kho tài nguyên thiên nhiên bao la của đất nước: những dải rừng gỗ nguyên sinh rộng lớn, những trữ lượng than, đồng, sắt và dầu mỏ khổng lồ, thủy lực dồi dào và đất đai màu mỡ.

Sự giàu có của đất nước này đã tạo ra kiểu đa dạng riêng của nó. Những nhóm lợi ích khu vực và thương mại đặc biệt nổi lên. Các chủ tàu biển ở vùng bờ biển miền Đông chủ trương tự do buôn bán. Các nhà chế tạo công nghiệp miền Trung – Tây đòi lập ra thuế nhập khẩu để bảo hộ vị trí của họ trong thị trường Hoa Kỳ đang mở rộng. Các điền chủ mong muốn cước phí vận tải thấp và giá nông sản cao, những người chủ các nhà máy xay và những người làm bánh muốn có giá ngũ cốc thấp; những người vận hành xe lửa muốn thu mức cước phí vận chuyển cao nhất có thể. Những chủ ngân hàng ở New York, những người trồng bông ở miền Nam, những người chăn nuôi gia súc ở Texas và những người khai thác rừng ở Oregon, mỗi lớp người có những cách nhìn nhận khác nhau về nền kinh tế và vai trò điều tiết của chính quyền.

Công việc liên tục không ngừng của Hiến pháp và của chính quyền mà Hiến pháp đã lập ra là quy tụ những lợi ích đa dạng này về một mối nhằm tạo ra một nền tảng chung và đồng thời bảo vệ những quyền cơ bản của mọi người dân.

So với những phức tạp của chính quyền ngày nay, các vấn đề của việc cai quản bốn triệu dân trong các điều kiện kinh tế kém phát triển hơn nhiều xem ra quả là nhỏ bé. Nhưng những người soạn thảo Hiến pháp xây dựng nó không chỉ cho hiện tại mà còn cho cả tương lai. Họ ý thức sâu sắc về sự cần thiết của một cơ cấu chính quyền không chỉ hoạt động trong thời đại họ, mà còn cho nhiều thế hệ mai sau. Do vậy, họ đã đưa vào Hiến pháp một điều khoản quy định việc sửa đổi văn kiện này khi các điều kiện xã hội, kinh tế hay chính trị đòi hỏi. Đã có 27 điều sửa đổi được thông qua kể từ ngày Hiến pháp được phê chuẩn, và tính linh hoạt của Hiến pháp đã tỏ ra là một trong những mặt mạnh lớn nhất của nó. Nếu không có mức độ linh hoạt đó, không thể hình dung một văn kiện soạn thảo cách đây hơn 200 năm mà vẫn còn có thể phục vụ hữu hiệu nhu cầu của 260 triệu dân và hàng nghìn đơn vị chính quyền ở mọi cấp tại Hoa Kỳ ngày nay. Cũng như không thể hình dung nó có thể áp dụng với một hiệu lực và độ chính xác như nhau cho các vấn đề của cả các thị trấn nhỏ lẫn các thành phố lớn.

Vì vậy Hiến pháp và chính quyền liên bang đứng ở đỉnh của hình tháp chính quyền gồm cả chính quyền địa phương lẫn chính quyền bang. Trong hệ thống chính quyền Hoa Kỳ, mỗi cấp chính quyền đều có một mức độ tự chủ lớn với những quyền hạn nhất định dành riêng cho cấp chính quyền đó. Tranh chấp giữa các cấp chính quyền khác nhau được giải quyết tại các tòa án. Tuy nhiên, có những vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia đòi hỏi sự hợp tác đồng thời của mọi cấp chính quyền, và Hiến pháp cũng có những điều khoản đề cập đến những vấn đề đó. Chẳng hạn, các trường công ở Mỹ phần lớn do chính quyền địa phương quản lý, tuân theo những tiêu chuẩn áp dụng trong toàn bang. Nhưng chính quyền liên bang cũng trợ giúp các trường học, vì biết đọc, viết viết và có trình độ học vấn là những vấn đề lợi ích quốc gia thiết yếu, và chính quyền áp dụng những tiêu chuẩn đồng nhất nhằm đẩy mạnh sự bình đẳng về cơ hội học tập. Trong các lĩnh vực khác, như nhà ở, y tế và phúc lợi, cũng có một sự hợp tác tương tự giữa các cấp chính quyền.

Không một sản phẩm nào của xã hội loài người được coi là hoàn hảo. Dù đã qua nhiều lần sửa đổi, Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ có lẽ vẫn còn chứa đựng những khiếm khuyết, chúng sẽ bộc lộ ra trong những thời kỳ căng thẳng sau này. Nhưng hai thế kỷ phát triển và phồn thịnh vô song đã chứng tỏ tầm nhìn xa trông rộng của 55 con người đã làm việc suốt mùa hè năm 1787 để đặt nền móng cho chính quyền Mỹ. Nói như Archibald Cox, nguyên Tổng chưởng lý Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, “Bản Hiến pháp nguyên thủy vẫn còn có ích cho chúng ta mặc dù đã có những thay đổi sâu rộng trong mọi khía cạnh của đời sống ở Mỹ, bởi vì những người soạn thảo nó đã được phú cho một thiên tài là nói ra đủ lời nhưng không nói quá nhiều… Khi mà kế hoạch đề ra tại Hội nghị lập hiến thành công, khi mà đất nước lớn mạnh và phồn vinh cả về mặt vật chất lẫn trong việc thực hiện những lý tưởng của nó, tức là bản Hiến pháp đã tạo dựng được cho mình uy thế và quyền lực lớn hơn rất nhiều so với uy thế và quyền lực của bất kỳ cá nhân hay tập thể nào”.

Công việc soạn thảo hiến pháp

Khoảng thời gian từ lúc phê chuẩn Điều lệ Liên bang năm 1781 đến lúc soạn thảo Hiến pháp mới vào năm 1787 là một thời kỳ đầy rẫy những yếu kém, tranh chấp và xáo động. Trong Điều lệ Liên bang, không có điều khoản nào quy định ngành hành pháp có quyền thi hành luật pháp, cũng như quy định hệ thống tòa án quốc gia có quyền giải thích pháp luật. Quốc hội lập pháp là cơ quan duy nhất trong chính quyền quốc gia, nhưng nó hoàn toàn không có quyền buộc các bang phải làm bất cứ điều gì trái với ý nguyện của họ. Trên lý thuyết, Quốc hội có thể tuyên bố chiến tranh và thiết lập quân đội nhưng nó không thể buộc bất cứ bang nào cung cấp quân số, vũ khí và trang thiết bị cho quân đội. Quốc hội phải trông cậy vào các bang để có nguồn thu tài trợ các hoạt động của mình, nhưng lại không thể xử phạt bất kỳ một bang nào với lý do không đóng góp vào ngân sách liên bang. Các bang được quyền kiểm soát việc đánh thuế cùng mức thuế và từng bang có thể phát hành đồng tiền riêng. Khi có tranh chấp giữa các bang – và có nhiều tranh cãi về ranh giới bang không được giải quyết – thì Quốc hội đóng vai trò trung gian hòa giải và phân xử nhưng vẫn không thể buộc các bang phải chấp nhận các quyết định của mình.

Kết quả là một sự hỗn loạn thực sự. Không có quyền thu thuế, chính quyền liên bang rơi vào tình trạng mắc nợ. Bảy trong số 13 bang in tiền giấy với khối lượng lớn, có mệnh giá cao nhưng sức mua thực tế thấp, để trả cho các cựu chiến binh của cuộc Chiến tranh Cách mạng và hàng loạt chủ nợ để thanh toán nợ nần giữa điền chủ nhỏ và các chủ đồn điền lớn.

Ngược lại, cơ quan lập pháp bang Massachusetts lại áp đặt một đồng tiền bị kiểm soát chặt chẽ cùng với mức thuế cao, gây ra việc lập nên một đội quân điền chủ nhỏ dưới sự lãnh đạo của Daniel Shays – nguyên là một đại úy quân đội trong Chiến tranh Cách mạng. Mưu đồ chiếm lấy cơ quan lập pháp của bang Massachusets, Shays và những người khác đã đòi bãi bỏ việc bắt nợ tài sản và cầm cố không công bằng. Quân đội đã được huy động để đàn áp cuộc bạo động, nhưng chính quyền liên bang đã không có ý kiến gì.

Việc thiếu một đồng tiền thống nhất và ổn định cũng đã phá vỡ hoạt động buôn bán giữa các bang với nhau và giữa các bang với các nước khác. Không chỉ giá trị của tiền giấy giữa các bang không thống nhất mà một số bang (như New York và Virginia) lại đánh thuế vào hàng hóa nhập khẩu từ các bang khác, do đó gây ra những hành động trả đũa. Đến nỗi các bang đã có thể tuyên bố, như lời cơ quan thanh tra tài chính liên bang, rằng “uy tín nhà nước của chúng ta không còn nữa”. Vấn đề càng trở nên phức tạp hơn khi các bang mới giành được độc lập này do đã đột ngột tách khỏi Anh nên không còn được hưởng đối xử ưu đãi tại các cảng của Anh nữa. Khi Đại sứ Hoa Kỳ John Adams tìm cách đàm phán một hiệp định thương mại vào năm 1785 thì người Anh đã từ chối với lý lẽ viện ra rằng các bang riêng lẻ không bị ràng buộc bởi hiệp định này.

Một chính quyền trung ương non yếu, không đủ sức mạnh hậu thuẫn cho các chính sách của mình bằng lực lượng quân sự, thì tất yếu sẽ bị trói tay cả trong lĩnh vực ngoại giao. Người Anh không chịu rút quân đội của họ ra khỏi các căn cứ và thương cảng thuộc “Lãnh thổ miền Tây Bắc” (Northwest Territory) của quốc gia mới này như họ đã thỏa thuận trong hòa ước năm 1783 đánh dấu sự kết thúc của Chiến tranh Cách mạng. Vấn đề trở nên tồi tệ hơn nữa khi các sĩ quan Anh ở các vùng biên giới phía bắc và các sĩ quan Tây Ban Nha ở phía nam cung cấp vũ khí cho bộ tộc người Anhđiêng và xúi giục họ tấn công những người định cư Mỹ. Người Tây Ban Nha, nắm trong tay việc kiểm soát Florida và Louisiana cũng như toàn bộ lãnh thổ phía tây sông Mississipi, cũng từ chối không cho phép các điền chủ ở miền tây dùng cảng New Orleans để vận chuyển hàng hóa.

Mặc dù có những dấu hiệu phồn vinh trở lại ở một vùng của quốc gia non trẻ này nhưng các vấn đề trong và ngoài nước vẫn tiếp tục gia tăng. Người ta ngày càng thấy rõ rằng chính quyền trung ương của liên bang không đủ mạnh để thiết lập một hệ thống tài chính lành mạnh, quản lý thương mại, thực thi các hiệp ước hoặc dùng đến sức mạnh quân sự chống lại kẻ thù ngoại bang khi cần thiết. Những chia rẽ nội bộ giữa điền chủ và thương nhân, giữa con nợ và chủ nợ và giữa bản thân các bang với nhau ngày càng trở nên nghiêm trọng. Với cuộc bạo động của những người nông dân cùng quẫn do Shays cầm đầu vào năm 1786 còn in đậm trong tâm trí mọi người, George Washington đã cảnh báo: “Bang nào cũng chứa đựng những chất dễ cháy mà chỉ cần một tia lửa cũng có thể cháy bùng lên”.

Ý thức về thảm hoạ chính trị và việc cần phải có sự thay đổi triệt để đã bao trùm bầu không khí Hội nghị lập hiến được bắt đầu vào ngày 25 tháng Năm năm 1787. Tất cả các đại biểu đều tin rằng phải có một chính quyền trung ương hữu hiệu với những quyền lực cưỡng bách rộng rãi để thay thế cho Quốc hội bất lực lập ra theo Điều lệ Liên bang. Thoạt đầu các đại biểu nhất trí rằng chính quyền mới sẽ gồm ba ngành tách biệt – lập pháp, tư pháp và hành pháp, – từng ngành có những quyền riêng biệt để cân đối với những quyền của hai ngành kia. Mọi người cũng nhất trí rằng ngành lập pháp – giống như Nghị viện Anh – cần gồm có hai viện.

Tuy nhiên, ngoài điểm trên đây, vẫn có những bất đồng quan điểm sâu sắc đôi khi có nguy cơ phá vỡ Hội nghị và làm gián đoạn các cuộc thảo luận trước khi hiến pháp được thảo ra. Các bang lớn thì ủng hộ việc phân bổ số người đại diện trong cơ quan lập pháp tỷ lệ với số dân – mỗi bang cần có số phiếu biểu quyết nhiều ít tuỳ theo số dân của mình. Sợ bị sự áp đảo của các bang lớn, các bang nhỏ một mực đòi tất cả các bang đều có quyền đại diện ngang nhau. Vấn đề này đã được giải quyết bằng sự “Thỏa hiệp Lớn”, một biện pháp dành cho các bang có quyền đại diện ngang bằng nhau trong một viện và quyền đại diện tỷ lệ theo số dân trong viện kia. Mỗi bang sẽ có  hai ghế trong Thượng viện. Số ghế trong Hạ viện sẽ phụ thuộc vào dân số từng bang. Vì được cho là gần gũi hơn với thái độ của đa số dân cư, Hạ viện được trao quyền khởi xướng mọi luật lệ liên quan tới các nguồn thu và ngân sách của liên bang.

Sự Thỏa hiệp Lớn này đã chấm dứt mối bất hòa giữa các bang lớn và nhỏ, nhưng trong suốt mùa hè năm đó các đại biểu cũng đã đi đến nhiều thỏa hiệp khác. Một số đại biểu, lo sợ phải trao quá nhiều quyền lực cho người dân, đã yêu cầu bầu cử gián tiếp đối với tất cả quan chức liên bang; nhưng những đại biểu khác lại muốn một nền tảng cử tri càng rộng lớn càng tốt. Một số muốn loại trừ các lãnh thổ miền tây khỏi khả năng sau này có thể được mang quy chế bang; nhưng những đại biểu khác lại nhận thấy sức mạnh tương lai của đất nước nằm ở những vùng đất nguyên sơ bên ngoài dãy núi Appalachian. Có những lợi ích cục bộ cần được cân đối, có những quan điểm khác nhau về nhiệm kỳ, quyền lực và phương thức bầu chọn tổng thống cần được dung hòa, và những quan niệm đối lập nhau về vai trò của ngành tư pháp liên bang.

Con đường dẫn tới thỏa hiệp không mấy khó khăn nhờ có phẩm chất ưu tú của các đại biểu tham gia Hội nghị. Chỉ một số ít các nhà lãnh đạo vĩ đại của cuộc Cách mạng Mỹ vắng mặt: Thomas Jefferson và John Adams – cả hai là những vị tổng thống tương lai – khi ấy làm nhiệm vụ phái viên của Mỹ tại Pháp và Anh; John Jay bận công việc với tư cách ngoại trưởng của Liên bang. Một số nhỏ những người khác như Samuel Adams và Patrick Henry quyết định không tham gia vì tin rằng cơ cấu chính quyền hiện có đã là lành mạnh rồi. Trong số những người tham dự, người danh tiếng nhất, vượt xa tất cả những người khác, là George Washington, vị tư lệnh của quân đội Mỹ và là người anh hùng của cuộc Cách mạng, chủ trì Hội nghị. Benjamin Franklin – nhà khoa học, học giả và nhà ngoại giao cao niên sáng suốt, cũng có mặt. Và cũng có những nhân vật lỗi lạc như James Madison của bang Virginia, thống đốc Morris của Pennsylvania và Alexander Hamilton – một luật sư trẻ sáng giá đến từ New York.

Cả những đại biểu trẻ nhất, còn ở độ tuổi 20 và 30, cũng đã thể hiện những tài năng thiên bẩm về chính trị và trí tuệ. Như lời Thomas Jefferson khi đó đang ở Paris đã viết cho John Adams tại London: “Đây thực sự là một sự quần tụ của những á thần”.

Một số ý tưởng thể hiện trong Hiến pháp là mới mẻ, nhưng nhiều ý tưởng được đúc rút từ truyền thống cai trị của Anh và từ kinh nghiệm thực tiễn trong chế độ tự trị của 13 bang. Bản Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện chỉ đường quan trọng, hướng tâm trí các đại biểu tập trung vào những ý tưởng tự trị và bảo toàn những quyền cơ bản của con người. Những bài viết của các nhà triết học chính trị châu Âu như Montesquieu và John Locke cũng có nhiều ảnh hưởng.

Đến cuối tháng 7, hội nghị cử ra một ủy ban để dự thảo một văn kiện dựa trên những thỏa thuận đã đạt được. Sau thêm một tháng thảo luận và gọt giũa nữa, một ủy ban thứ hai do thống đốc Morris đứng đầu, hoàn thành bản dự thảo cuối cùng, được đệ trình để ký kết vào ngày 17 tháng Chín. Không phải tất cả các đại biểu đều hài lòng với kết quả này; một số đã bỏ về trước buổi lễ, và trong số những người ở lại, có ba người không chịu ký là Edmund Randolph và George Mason của Virginia, Elbridge Gerry của Massachusetts. Trong số 39 người đặt bút ký có lẽ chẳng ai hoàn toàn thỏa mãn và quan điểm của họ đã được Benjamin Franklin tóm tắt đầy đủ khi ông nói: “Có một vài phần trong bản Hiến pháp này hiện tại tôi chưa chấp thuận, nhưng tôi không đoan quyết là tôi sẽ không bao giờ chấp thuận những phần ấy”. Tuy nhiên ông chấp nhận bản Hiến pháp này “bởi tôi chẳng thể mong đợi một văn kiện xuất sắc hơn và tôi cũng không thể quả quyết rằng đây không phải là văn kiện xuất sắc nhất”.

Washington với hội nghị lập hiến

Khi đã có đủ đại biểu đến Philadelphia để tạo thành số đại biểu tối thiểu hợp lệ cho việc triệu tập Hội nghị lập hiến, George Washington được nhất trí bầu làm chủ tịch Hội nghị. Ông miễn cưỡng chấp nhận vinh dự này vì cho rằng mình không đủ tiêu chuẩn. Diễn văn khai mạc của ông là những lời nói với niềm tự hào và lý tưởng của những người tham dự Hội nghị: “Chúng ta hãy cùng giương cao một lá cờ mà những người sáng suốt và trung thực có thể sửa đổi”.

Với tư cách người chủ trì, Washington đã tỏ ra kiên định, nhã nhặn nhưng lạnh lùng, chỉ tham gia các cuộc tranh luận vào ngày cuối cùng của Hội nghị. Ông là một nhân vật gây ấn tượng sâu sắc, cả về mặt hình thể lẫn tinh thần, đến nỗi một đại biểu nhận xét rằng Washington là “người duy nhất mà tôi cảm thấy hơi sợ khi gặp mặt”.

Sự ủng hộ của Washington cho một Liên bang hùng mạnh đã bắt rễ từ kinh nghiệm khi làm tổng tư lệnh Quân đội Lục địa trong thời kỳ Cách mạng Mỹ. Ông còn nhớ ông đã phải cố thuyết phục quân lính bang New Jersey của mình tuyên thệ trung thành với Hợp chúng quốc. Họ đã cự tuyệt và nói “New Jersey là đất nước của chúng ta !”. Trong một khoảng thời gian nghỉ giữa Hội nghị, Washington đã trở lại chiến trường cách mạng Valley Forge, bang Pennsylvania, gần đó, nơi ông và quân đội của mình đã trải qua một mùa đông khắc nghiệt do các bang không chịu đóng góp vào sự nghiệp chung.

Khi Hội nghị kết thúc và bắt đầu tiến trình phê chuẩn, Washington từ bỏ sự im lặng của mình và nhân danh Hội nghị làm việc đầy nhiệt huyết, góp phần thuyết phục một số người chống đối của bang Virginia quê hương ông hãy thay đổi lập trường. Ông công nhận tác dụng của những người phê phán khi họ đưa ra Tuyên ngôn Nhân quyền (sau đó trở thành 10 điều sửa đổi đầu tiên của Hiến pháp) trước cử toạ. Đồng thời, ông biểu dương James Madison và Alexander Hamilton về sự ủng hộ của họ đối với Hiến pháp trong tập Các bài viết chủ trương chế độ liên bang, khi ông viết rằng họ đã “rọi một ánh sáng mới vào khoa học chính quyền; họ đã đem đến một sự bàn luận đầy đủ và công bằng về quyền con người và giải thích những quyền ấy một cách rõ ràng và mạnh mẽ đến nỗi không thể không để lại một ấn tượng lâu dài”.

Phê chuẩn: một bước mở đầu

Trước mắt là tiến trình phê chuẩn gay go gian khổ, nghĩa là phải có ít nhất 9 bang chấp thuận Hiến pháp. Delaware là bang hành động đầu tiên, tiếp ngay sau đó là New Jersey và Georgia. Tại Pennsylvania và Connecticut, Hiến pháp đã được chấp thuận với một đa số lớn. Một cuộc tranh cãi gay gắt đã xảy ra ở Massachusetts. Bang này cuối cùng đặt điều kiện cho việc phê chuẩn của mình là bổ sung 10 điều sửa đổi đảm bảo một số quyền cơ bản nhất định trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do hội họp; quyền được xét xử bởi bồi thẩm đoàn; và việc cấm khám xét hoặc bắt giữ vô căn cứ. Một số bang khác cũng đưa vào những điều khoản tương tự, và những điều sửa đổi này – nay được gọi là bản Tuyên ngôn Nhân quyền – đã được đưa vào Hiến pháp năm 1791.

Đến cuối tháng Sáu năm 1788, Maryland, South Carolina và New Hampshire đã đồng ý, qua đó đáp ứng yêu cầu cần có sự phê chuẩn của 9 bang. Về mặt pháp lý, Hiến pháp đã có hiệu lực. Nhưng hai bang đầy thế lực và quan trọng là New York và Virginia, cùng hai bang nhỏ hơn là North Carolina và Rhode Island vẫn lưỡng lự. Người ta thấy rõ là nếu không có sự chấp thuận của New York và Virginia thì Hiến pháp vẫn còn đặt trên một nền tảng bấp bênh.

Virginia bị chia rẽ sâu sắc, nhưng ảnh hưởng của George Washington khi đưa ra những lý lẽ hậu thuẫn cho việc phê chuẩn đã thuyết phục được cơ quan lập pháp bang này thông qua với đa số phiếu sít sao vào ngày 26 tháng Sáu năm 1788. Tại New York, Alexander Hamilton, James Madison và John Jay đã viết một loạt bài lý luận xuất sắc bênh vực Hiến pháp – được gọi là Các bài viết chủ trương chế độ liên bang –   và giành được một đa số phiếu sít sao ủng hộ việc chấp thuận vào ngày 26 tháng Bảy. Tháng Mười Một có thêm sự chấp thuận của North Carolina. Rhode Island tiếp tục đứng ngoài cho tới năm 1790 khi không còn chỗ đứng cho một bang nhỏ và yếu thế bị bao bọc bởi một thể chế cộng hòa lớn mạnh.

Tiến trình tổ chức chính quyền bắt đầu ngay sau khi có sự phê chuẩn của Virginia và New York. Ngày 13 tháng Chín năm 1788, Quốc hội quyết định thành phố New York là nơi đặt trụ sở của chính quyền mới. (Đến năm 1790, thủ đô được chuyển đến Philadelphia và năm 1800, chuyển đến Washington, D.C.). Quốc hội lấy ngày Thứ Tư đầu tiên của tháng Giêng năm 1789 làm ngày lựa chọn các đại cử tri (những đại biểu bỏ phiếu bầu ra tổng thống), lấy ngày Thứ Tư đầu tiên của tháng Hai là ngày các đại cử tri họp lại để bầu chọn tổng thống, và lấy ngày Thứ Tư đầu tiên của tháng Ba làm ngày khai mạc Quốc hội khóa mới.

Theo Hiến pháp, cơ quan lập pháp của từng bang có quyền quyết định cách lựa chọn các đại cử tri, cũng như cách bầu ra các hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ. Một số bang quyết định chọn cách phổ thông đầu phiếu, một số bang khác chọn cách để cho cơ quan lập pháp bầu chọn, và một số ít bang kết hợp cả hai cách trên. Những cuộc tranh chấp diễn ra kịch liệt; những chậm trễ trong những cuộc bầu cử đầu tiên theo Hiến pháp mới là điều không thể tránh khỏi. Ví dụ, New Jersey đã lựa chọn cách phổ thông đầu phiếu, nhưng lại quên không ấn định rõ thời gian kết thúc bỏ phiếu, nên thời gian bỏ phiếu kéo dài tới ba tuần.

Việc thực thi hoàn toàn và cuối cùng Hiến pháp được ấn định vào ngày 4 tháng Ba năm 1789. Nhưng đến ngày đó, mới chỉ có 13 trong số 59 hạ nghị sĩ và 8 trong số 22 thượng nghị sĩ có mặt tại thành phố New York. (Số ghế phân bổ cho North Carolina và Rhode Island vẫn bỏ trống cho tới khi các bang này phê chuẩn Hiến pháp). Cuối cùng cũng có được số đại biểu tối thiểu hợp lệ tại Hạ viện vào ngày 1 tháng Tư và tại Thươùng viện vào ngày 1 tháng Sáu. Cả hai viện sau đó họp liên tịch để kiểm các lá phiếu của các đại cử tri.

Không ai ngạc nhiên khi George Washington được nhất trí bầu làm tổng thống đầu tiên, và John Adams của bang Massachusetts làm phó tổng thống. Adams đến New York ngày 21 tháng Tư và Washington đến vào ngày 23 tháng Tư. Hai người tuyên thệ nhậm chức ngày 30 tháng Tư năm 1789. Công việc thiết lập chính quyền mới đã được hoàn tất. Song việc giữ gìn chế độ  cộng hòa đầu tiên trên thế giới mới chỉ bắt đầu.

Hiến pháp với tư cách là bộ luật tối cao

Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ tự coi là “bộ luật tối cao của đất nước”. Điều này có nghĩa là khi hiến pháp hoặc luật pháp của các bang do các cơ quan lập pháp của các bang hoặc Quốc hội thông qua, bị phát hiện là trái với Hiến pháp liên bang, thì chúng sẽ không có hiệu lực. Những phán quyết mà Tòa án Tối cao đưa ra trong hai thế kỷ qua đã khẳng định và củng cố nguyên tắc về quyền tối thượng của Hiến pháp.

Quyền lực tối hậu thuộc về người dân Hoa Kỳ, những người có thể thay đổi bộ luật cơ bản, nếu họ mong muốn, bằng cách sửa đổi Hiến pháp hoặc –   ít nhất trên lý thuyết –   thảo ra một hiến pháp mới. Tuy nhiên, người dân không trực tiếp thực hiện quyền lực đó của mình. Họ ủy nhiệm việc tiến hành những công việc thường nhật cho các quan chức nhà nước do dân cử hoặc được bổ nhiệm.

Theo Hiến pháp, quyền lực của các quan chức nhà nước là có giới hạn. Các hoạt động công ích của họ phải tuân thủ Hiến pháp và những đạo luật đã được ban hành theo Hiến pháp. Các quan chức dân cử phải ra ứng cử theo định kỳ, và khi đó quá trình làm việc của họ sẽ được công chúng xem xét kỹ lưỡng. Các quan chức được bổ nhiệm thì phục vụ tuỳ theo ý muốn của cá nhân hay cơ quan bổ nhiệm họ, và có thể bị cách chức bất kỳ lúc nào. Có một ngoại lệ là việc tổng thống bổ nhiệm các chánh án Tòa án Tối cao và các thẩm phán liên bang khác cho một nhiệm kỳ suốt đời, để họ khỏi phải chịu những ràng buộc hoặc ảnh hưởng chính trị.

Thông thường nhất, nhân dân Mỹ thể hiện ý nguyện của mình bằng cách bỏ phiếu kín. Tuy nhiên, Hiến pháp có điều khoản quy định việc phế truất các quan chức trong những trường hợp có hạnh kiểm sai trái hoặc có sai phạm cực kỳ nghiêm trọng bằng quy trình luận tội. Điều II khoản 4 quy định: “Tổng thống, Phó tổng thống và mọi quan chức dân sự của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ sẽ bị cách chức nếu bị luận tội, và sau đó bị kết tội là phản quốc, nhận hối lộ hoặc những tội và những hành động phạm pháp nghiêm trọng khác” .

Luận tội là việc một cơ quan lập pháp buộc tội một quan chức chính quyền có hành vi sai trái; điều này, không như người ta thường nghĩ, không có nghĩa là đã kết tội theo tội danh đó. Theo quy định của Hiến pháp, Hạ viện phải đưa ra những lời buộc tội là có hành vi sai trái khi bỏ phiếu biểu quyết dự luật luận tội. Quan chức bị buộc tội sau đó được xét xử tại Thượng viện với sự chủ toạ của chánh án Tòa án Tối cao.

Luận tội được coi là một biện pháp quyết liệt, một biện pháp chỉ được sử dụng trong những trường hợp hãn hữu ở Hoa Kỳ. Kể từ năm 1797, Hạ viện mới biểu quyết điều khoản luận tội đối với 16 quan chức liên bang: 2 tổng thống, 1 thành viên nội các, 1 thượng nghị sĩ, 1 chánh án Tòa án Tối cao và 11 thẩm phán liên bang.

Năm 1868, Tổng thống Andrew Johnson bị luận tội về những vấn đề liên quan đến cách đối xử thích đáng đối với các bang bại trận sau khi kết thúc cuộc Nội chiến. Tuy nhiên Thượng viện đã thiếu một phiếu để đủ 2/3 số phiếu thuận cần thiết cho việc kết tội, và Johnson vẫn tại vị cho đến hết nhiệm kỳ. Năm 1974, do vụ Watergate, Tổng thống Richard Nixon đã từ chức sau khi Uỷ ban Tư pháp của Hạ viện kiến nghị luận tội, và trươực khi toàn thể Hạ viện kịp bỏ phiếu thông qua dự luật luận tội.

Mới đây năm 1998, Tổng thống Bill Clinton bị Hạ viện luận tội về tội khai man và cản trở hoạt động tư pháp. Sau khi xét xử, Thượng viện miễn tội cho vị tổng thống này về cả hai điều buộc tội: Thượng viện đã biểu quyết với số phiếu 55-45 là không phạm tội khai man, và biểu quyết với số phiếu bằng nhau 50-50 về tội cản trở hoạt động tư pháp. Để cách chức tổng thống phải có biểu quyết có tội với đa số 67 phiếu về cả hai lời buộc tội.

Những nguyên tắc của chính quyền

Mặc dù Hiến pháp đã thay đổi trên nhiều phương diện kể từ khi được thông qua lần đầu, những nguyên tắc cơ bản của nó ngày nay vẫn được giữ nguyên như hồi năm 1789:

Các điều khoản về sửa đổi Hiến pháp

Các tác giả bản Hiến pháp đã nhận thức sâu sắc rằng muốn cho Hiến pháp có thể trường tồn và theo kịp sự lớn mạnh của đất nươực thì thỉnh thoảng sẽ cần phải có những thay đổi. Họ cũng ý thức được rằng không thể để cho tiến trình thay đổi diễn ra dễ dãi, cho phép có những điều sửa đổi thiếu suy xét và được thông qua vội vã. Cũng với sự cân nhắc tương tự, họ muốn đảm bảo không để cho một thiểu số có thể cản trở hành động mà đa số người dân mong muốn. Giải pháp của họ là nhằm tạo ra một quá trình kép qua đó Hiến pháp có thể được sửa đổi.

Với hai phần ba số phiếu thuận tại mỗi viện, Quốc hội có thể khởi xướng việc sửa đổi. Hoặc theo cách khác, cơ quan lập pháp của hai phần ba số bang có thể yêu cầu Quốc hội triệu tập một đại hội toàn quốc để bàn luận và dự thảo sửa đổi. Trong cả hai trường hợp, sửa đổi chỉ có hiệu lực khi được sự chấp thuận của ba phần tư số bang.

Ngoài quá trình trực tiếp thay đổi Hiến pháp, hiệu lực của các điều khoản trong Hiến pháp có thể được thay đổi bằng sự giải thích tư pháp. Ngay từ sớm trong lịch sử của nền cộng hòa, năm 1803 trong vụ Marbury kiện Madison, Tòa án Tối cao đã thiết lập nguyên tắc giám sát tư pháp, tức là quyền của Tòa án trong việc giải thích các đạo luật của Quốc hội và quyết định các đạo luật đó có mang tính hợp hiến hay không. Nguyên tắc này cũng bao gồm cả quyền lực của Tòa án trong việc giải thích ý nghĩa của nhiều phần trong hiến pháp khi áp dụng vào các điều kiện xã hội, kinh tế, chính trị và pháp luật luôn thay đổi. Qua nhiều năm, một loạt quyết định của Tòa án, về những vấn đề từ quy định của chính quyền đối với phát thanh và truyền hình cho tới các quyền của người bị kết án trong các vụ án hình sự, đã đem lại hiệu quả là cập nhật mục đích chính của luật hiến pháp mà không có sự thay đổi đáng kể nào trong bản thân Hiến pháp.

Các luật của Quốc hội, được thông qua để thực thi những điều khoản của luật cơ bản hoặc để thích nghi nó với những điều kiện thay đổi, cũng mở rộng và, theo những cách thức tinh tế, làm thay đổi ý nghĩa của Hiến pháp. Về điểm này, các quy chế và quy định của nhiều cơ quan chính quyền liên bang có thể cũng có tác dụng tương tự. Theo quan điểm của tòa án, sự kiểm nghiệm chặt chẽ trong cả hai trường hợp là nhằm kiểm định xem liệu các luật và quy chế này có tuân thủ Hiến pháp hay không.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền

Hiến pháp được sửa đổi 27 lần kể từ năm 1789 và chắc chắn sẽ còn tiếp tục được sửa đổi trong tương lai. Những thay đổi bao quát nhất đã được tiến hành trong vòng hai năm sau ngày Hiến pháp được thông qua. Trong thời kỳ này, 10 điều sửa đổi đầu tiên, được gọi chung là bản Tuyên ngôn Nhân quyền, đã được bổ sung. Quốc hội đã chấp thuận cả khối 10 điều khoản sửa đổi này trong tháng Chín năm 1789 và 11 bang đã phê chuẩn chúng vào cuối năm 1791.

Phần lớn việc phản đối ban đầu đối với Hiến pháp không phải xuất phát từ những người chống đối việc củng cố khối liên bang mà là từ những chính khách cảm thấy rằng các quyền cá nhân phải được quy định cụ thể. Một trong những chính khách đó là George Mason, tác giả bản Tuyên bố về nhân quyền của bang Virginia – tiền thân của Tuyên ngôn Nhân quyền. Với tư cách là đại biểu của Hội nghị Lập hiến, Mason từ chối ký vào văn kiện này do ông cảm thấy các quyền cá nhân không được bảo vệ đầy đủ. Dĩ nhiên, việc phản đối của Mason gần như làm bế tắc việc phê chuẩn của bang Virginia. Như đã nói ở trên, do cũng có những suy nghĩ tương tự, Massachusetts đặt điều kiện cho việc phê chuẩn của mình là bổ sung những đảm bảo cụ thể về quyền cá nhân. Khi Quốc hội khóa đầu tiên nhóm họp, quan điểm chung đối với việc thông qua những sửa đổi này gần như hoàn toàn nhất trí, và Quốc hội không mất nhiều thời gian cho việc soạn thảo những sửa đổi này.

Những sửa đổi này ngày nay vẫn còn nguyên vẹn như khi chúng được viết ra từ hai thế kỷ trước. Điều sửa đổi đầu tiên bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận và tự do báo chí, quyền được hội họp bình yên và quyền yêu sách chính quyền sửa chữa sai lầm. Điều sửa đổi thứ hai bảo đảm cho công dân được quyền mang vũ khí. Điều sửa đổi thứ ba quy định rằng quân đội không được đóng tại nhà dân khi không được phép của chủ sở hữu. Điều sửa đổi thứ tư không cho phép khám xét, bắt giữ và tịch thu tài sản vô căn cứ.

Bốn điều sửa đổi tiếp theo liên quan tới hệ thống tư pháp. Điều sửa đổi thứ năm cấm xét xử tội phạm nghiêm trọng nếu không có bản cáo trạng của bồi thẩm đoàn. Điều sửa đổi này cấm xét xử lặp lại đối với cùng một vi phạm; cấm xử phạt mà chưa có sự phán xét của pháp luật và quy định rằng không thể bắt buộc một người bị buộc tội làm chứng chống lại bản thân người đó. Điều sửa đổi thứ sáu bảo đảm xét xử nhanh chóng, công khai đối với các vi phạm hình sự. Điều sửa đổi này đòi hỏi việc xét xử bởi một bồi thẩm đoàn công minh, đảm bảo quyền tư vấn pháp luật cho người bị buộc tội và quy định rằng các nhân chứng buộc tội phải tham dự phiên tòa và đối chất với người bị kết tội. Điều sửa đổi thứ bảy đảm bảo việc xét xử bởi bồi thẩm đoàn trong các vụ kiện dân sự liên quan tới bất cứ thứ gì có trị giá trên 20 USD. Điều sửa đổi thứ tám cấm bắt nộp phạt hoặc thế chấp quá nặng và xử phạt tàn ác hoặc bất bình thường.

Hai điều cuối cùng trong 10 điều sửa đổi này bao gồm những tuyên bố theo nghĩa rộng của Hiến pháp: điều sửa đổi thứ chín tuyên bố rằng việc liệt kê các quyền không nhất thiết phải đầy đủ; rằng con người có những quyền khác không được đề cập cụ thể trong Hiến pháp. Điều sửa đổi thứ mười quy định rằng các quyền hạn mà Hiến pháp không trao cho chính quyền liên bang cũng không ngăn cấm đối với các bang thì được dành cho các bang hoặc cho nhân dân.

Sự bảo vệ sống còn đối với các quyền tự do cá nhân

Tính sâu sắc của Hiến pháp trong việc tổ chức chính quyền liên bang đã đem lại cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ tính ổn định phi thường qua hai thế kỷ. Tuyên ngôn Nhân quyền và những điều sửa đổi Hiến pháp sau đó đã đặt các quyền cơ bản của con người vào trung tâm của hệ thống pháp lý Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.

Vào những thời điểm xảy ra khủng hoảng quốc gia, các chính quyền có xu hướng tìm cách tạm đình chỉ những quyền này vì lợi ích an ninh quốc gia, nhưng tại Hoa Kỳ, những biện pháp này luôn luôn được tiến hành một cách miễn cưỡng và cẩn trọng nhất. Ví dụ, trong thời chiến nhà cầm quyền quân sự kiểm duyệt thư từ giữa Hoa Kỳ và các nước khác và đặc biệt là thư từ từ mặt trận gửi về nhà cho các gia đình. Song, ngay cả trong thời chiến thì quyền được xét xử công bằng theo hiến pháp cũng không bị bãi bỏ. Những người bị buộc tội hình sự –  và cả những đối tượng bao gồm công dân các nước thù địch bị buộc tội làm gián điệp, đảo chính và những hoạt động nguy hiểm khác – đều có quyền tự bảo vệ và, theo hệ thống luật pháp Hoa Kỳ, được coi là vô tội cho tới khi bị chứng minh là phạm tội.

Những điều sửa đổi Hiến pháp sau Tuyên ngôn Nhân quyền bao gồm một loạt rộng rãi nhiều chủ đề. Một trong những điều sửa đổi có ảnh hưởng sâu rộng nhất là điều sửa đổi thứ 14 được phê chuẩn vào năm 1868, trong đó thiết lập một định nghĩa đơn giản và rõ ràng về quyền công dân và khẳng định sự đảm bảo bao trùm đối với việc xét xử công bằng theo pháp luật. Thực chất, điều sửa đổi thứ 14 áp dụng những điều khoản bảo vệ của Tuyên ngôn Nhân quyền cho các bang. Những điều sửa đổi khác đã hạn chế quyền lực tư pháp của chính quyền quốc gia, thay đổi phương thức bầu cử tổng thống, nghiêm cấm chế độ nô lệ, bảo vệ quyền bầu cử chống lại việc cự tuyệt quyền đó với lý do chủng tộc, màu da, giới tính hoặc điều kiện nô lệ trước đây; mở rộng quyền của Quốc hội trong việc thu thuế đối với các khoản thu nhập cá nhân; và thiết lập việc bầu cử thượng nghị sĩ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ theo hình thức phổ thông đầu phiếu.

Bản tuyên ngôn nhân quyền

Điều sửa đổi thứ nhất: Quốc hội sẽ không đặt ra một đạo luật nào tôn trọng việc thiết lập tôn giáo, hoặc cấm đoán việc tự do thực hành tôn giáo đó; hoặc thu hẹp tự do ngôn luận, tự do báo chí, hoặc quyền của người dân được hội họp bình yên, và được kiến nghị với chính quyền sửa chữa những điều gây bất bình.

Điều sửa đổi thứ hai: Một lực lượng dân vệ được điều hành tốt là cần thiết cho an ninh của một quốc gia tự do, cho nên quyền của người dân được giữ và sử dụng vũ khí sẽ không bị xâm phạm.

Điều sửa đổi thứ ba: Không một người lính nào, trong thời bình, được đóng quân tại bất kỳ nhà dân nào nếu không được sự đồng ý của chủ nhà, và ngay trong thời chiến cũng chỉ theo  quy định của pháp luật.

Điều sửa đổi thứ tư: Quyền của người dân được an toàn về thân thể, nhà ở, giấy tờ và tài sản, chống lại mọi khám xét và bắt giữ vô căn cứ, sẽ không bị vi phạm, và không được có một giấy phép khám xét nào, trừ phi có lý do xác đáng căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận và đặc biệt là phải miêu tả địa điểm khám xét, những người và vật sẽ bị bắt giữ.

Điều sửa đổi thứ năm: Không một người nào bị buộc phải chịu trách nhịêm về một trọng tội hoặc một tội ác bỉ ổi nào khác nếu không có sự tường trình và cáo trạng của Đại bồi thẩm đoàn, ngoại trừ những trường hợp xảy ra trong các lực lượng vũ trang trên bộ hoặc hải quân, hoặc trong lực lượng dân vệ, khi thực tế đang thực thi công vụ trong thời chiến hoặc khi có mối nguy hiểm công cộng. Không một ai bị xử hai lần có hại đến mạng sống hoặc đến thân thể đối với cùng một vi phạm. Không một ai bị ép buộc phải làm chứng chống lại chính mình trong bất kỳ một vụ án hình sự nào. Không một ai bị tước đoạt mạng sống, quyền tự do hoặc tài sản nếu chưa qua một quá trình xét xử theo đúng luật. Không một tài sản riêng nào bị trưng dụng vào việc công mà không được bồi thường thích đáng.

Điều sửa đổi thứ sáu: Trong bất kỳ một sự truy tố hình sự nào, người bị tố cáo phải có quyền được xét xử nhanh chóng và công khai, bởi một đoàn bồi thẩm công minh của bang hay quận nơi đã diễn ra tội ác (nơi đó đã được xác định trước bằng luật pháp), được thông báo về tính chất và nguyên nhân của lời tố cáo, được đối chất với những nhân chứng chống lại mình, được hưởng một tiến trình bắt buộc để thu thập những bằng chứng có lợi cho mình, và được sự giúp đỡ của luật sư bào chữa.

Điều sửa đổi thứ bảy: Trong những vụ kiện tụng theo thông luật, nếu trị giá tranh chấp vượt quá 20 USD thì có quyền được xét xử bởi một đoàn bồi thẩm, và không một sự việc nào đã được một đoàn bồi thẩm xét xử lại bị xem xét lại ở bất kỳ một tòa án nào tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ theo cách khác chứ không phải theo đúng những quy tắc của thông luật.

Điều sửa đổi thứ tám: Không được đòi hỏi thế chấp quá đáng hoặc phạt quá nặng, không được trừng phạt một cách tàn ác hoặc không bình thường.

Điều sửa đổi thứ chín: Việc liệt kê một số quyền nhất định trong Hiến pháp không được hiểu là phủ nhận hoặc hạ thấp những quyền khác của người dân.

Điều sửa đổi thứ mười: Các quyền mà Hiến pháp không trao cho Hợp chúng quốc, cũng không ngăn cấm đối với các bang, thì được dành cho các bang hoặc cho nhân dân.

Điều sửa đổi gần đây nhất gồm điều sửa đổi thứ 22 giới hạn tổng thống chỉ được tại vị hai nhiệm kỳ; điều sửa đổi thứ 23 trao cho công dân thuộc quận Columbia quyền bỏ phiếu; điều sửa đổi thứ 24 trao cho công dân quyền bỏ phiếu cho dù không nộp thuế bầu cử; điều sửa đổi thứ 25 quy định việc thay thế chức vụ phó tổng thống khi chức vụ này bị bỏ trống giữa nhiệm kỳ; điều sửa đổi thứ 26 hạ thấp độ tuổi được bầu cử xuống còn 18 tuổi; và điều sửa đổi thứ 27 có liên quan tới việc bổ sung cho đủ số thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ của Hợp chúng quốc.

Điều quan trọng là phần lớn trong 27 điều sửa đổi này xuất phát từ những nỗ lực liên tục nhằm mở rộng quyền tự do của cá nhân các công dân hoặc tự do chính trị, trong khi chỉ có rất ít điều sửa đổi liên quan tới việc tăng cường cơ cấu chính quyền cơ bản được dự thảo tại Philadelphia năm 1787.

Cuộc tranh luận về chế độ nô lệ

Từ “chế độ nô lệ” không xuất hiện trong Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, nhưng văn kiện đã có sự thừa nhận gián tiếp đối với thể chế này. Các đại biểu tham dự Hội nghị Lập hiến quy định rằng ba phần năm số nô lệ sẽ phải được tính đến khi xác định số hạ nghị sĩ mà mỗi bang được bầu vào Hạ viện. Hiến pháp sau đó yêu cầu phải trả lại cho chủ sở hữu những nô lệ bỏ trốn (“những người được sở hữu để lao động hoặc phục dịch”) đã vượt qua biên giới bang. Và Hiến pháp ấn định một thời hạn –   năm 1808 –   sau đó Quốc hội sẽ không bị ngăn cấm chấm dứt việc buôn bán nô lệ (“việc di cư hoặc nhập cư của những người hiện đang sống ở bất kỳ bang nào sẽ được cân nhắc để chấp nhận”).

Từng điều khoản trong những điều khoản này đã được tranh luận sôi nổi tại hội nghị và mỗi điều khoản rốt cuộc đã được chấp nhận trên tinh thần thỏa hiệp. Ngay cả các thành viên các tổ chức chống chế độ nô lệ tại miền Bắc, như Alexander Hamilton, cũng phản đối việc tiếp tục bàn luận về vấn đề chế độ nô lệ, cho rằng nỗ lực ấy nhất định sẽ làm chia rẽ các bang và gây nguy hại cho mục tiêu cấp bách hơn là xây dựng một chính quyền quốc gia hùng mạnh. Những đại biểu miền Nam lỗi lạc như George Washington và James Madison những người vốn căm ghét chế độ nô lệ nhưng tin rằng nó sẽ mất đi khi Liên bang được xác nhận, cũng yêu cầu có sự thỏa hiệp.

Tuy nhiên, vấn đề đạo đức đã được nêu lên một cách sôi nổi trong nhiều dịp tại hội nghị. Morris, Thống đốc bang Pennsylvania tố cáo chế độ nô lệ như là một “thể chế nhục nhã, là sự nguyền rủa của thiên đường đối với những bang thịnh hành chế độ này” . Ông đối lập sự thịnh vượng và nhân phẩm của những vùng tự do với “tình cảnh khổ cực và đói nghèo” của những bang duy trì chế độ nô lệ.

Lời công kích hùng hồn nhất đối với chế độ nô lệ tại hội nghị xuất phát từ George Mason bang Virginia, người mà Jefferson gọi là “con người thông thái nhất thế hệ ông”. Mason nói: “Chế độ nô lệ sản sinh ra tác động xấu xa nhất đối với phong tục tập quán. Bất kỳ người chủ nô nào sinh ra đã là một tên bạo chúa nhỏ… Chế độ nô lệ không khuyến khích được nghệ thuật và sản xuất. Người nghèo khinh bỉ lao động khi họ thấy lao động do nô lệ thực hiện… Tôi cho rằng điều thiết yếu là chính quyền chung cần phải có quyền lực ngăn chặn sự phát triển của chế độ nô lệ”.

Thời gian sau đó, phong trào đòi bãi bỏ chế độ nô lệ chắc đã sử dụng cũng những luận cứ ấy và cũng đã có cảm nhận tương tự về sự xâm phạm đạo đức ấy, nhưng lúc đó, vấn đề chế độ nô lệ bị lảng tránh, cả với tư cách là một danh từ cũng như là một thách thức về đạo lý. Cuối cùng, phải cần tới ngọn lửa bi thảm của cuộc Nội chiến (1861-1865) để chấm dứt cảnh nô lệ tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và đưa đất nước này lên con đường đầy gian khổ tiến tới sự bình đẳng chủng tộc hoàn toàn.

Hệ thống liên bang

Những nhà kiến tạo khuôn khổ cho Hiến pháp đã có trong đầu những mục tiêu rõ ràng. Họ đã thể hiện những mục tiêu này với một sự sáng sủa xuất sắc trong lời mở đầu 6 điểm dài 52 từ cho văn kiện chính.

Vấn đề xây dựng một “Liên bang hoàn hảo hơn” là vấn đề hiển nhiên đặt ra cho 13 bang vào năm 1787. Đã hoàn toàn rõ ràng là hầu như bất kỳ hình thức liên bang nào cũng sẽ hoàn hảo hơn hình thức hiện tồn tại theo Điều lệ Liên bang. Nhưng việc thiết lập một cơ cấu khác để thay thế nó đòi hỏi phải có những sự lựa chọn hết sức quan trọng.

“… Hình thành một Liên bang hoàn hảo hơn”

Tất cả các bang đều mong muốn có quyền tự chủ mà họ có được từ sau khi tách khỏi Anh 11 năm trước đó. Việc cân đối “quyền lực của các bang” với nhu cầu về một chính quyền trung ương không phải là một việc dễ dàng. Những nhà tạo lập Hiến pháp thực hiện được việc này bằng cách để các bang giữ lại mọi quyền lực cần thiết để điều tiết đời sống thường nhật của công dân bang mình, với điều kiện là những quyền lực này không mâu thuẫn với nhu cầu và phúc lợi của cả nước. Việc phân chia quyền lực này, được gọi là chủ nghĩa liên bang, về cơ bản cũng giống như ngày nay. Quyền lực của mỗi bang đối với những công việc của địa phương –   trong những vấn đề như giáo dục, y tế, tổ chức kinh doanh, điều kiện làm việc, hôn nhân và ly hôn, thuế địa phương và quyền hạn của cảnh sát thông thường – được công nhận đầy đủ và chấp nhận rằng hai bang kề cận nhau vẫn thường có những luật rất khác nhau trong cùng một lĩnh vực.

Sự sắp đặt của Hiến pháp cho dù rất sáng tạo nhưng cuộc tranh cãi về quyền của các bang vẫn tiếp tục dai dẳng cho tới sau đó ba phần tư thế kỷ, tức năm 1861, khi một cuộc chiến tranh kéo dài bốn năm bùng nổ giữa các bang miền Bắc và miền Nam. Cuộc chiến tranh được biết đến như là cuộc Nội chiến hay cuộc Chiến tranh giữa các bang, và vấn đề nền tảng là quyền của chính quyền liên bang trong việc quản lý chế độ nô lệ ở những bang mới gia nhập liên bang. Những người dân miền Bắc đòi hỏi chính quyền liên bang phải có quyền này trong khi những người miền Nam cho rằng chế độ nô lệ là vấn đề do từng bang tự quyết định. Khi một nhóm các bang phía Nam tìm cách tách khỏi Liên bang thì chiến tranh đã nổ ra và được tiến hành trên nguyên tắc gìn giữ nền cộng hòa. Với thất bại của các bang miền Nam và việc các bang này tái nhập Liên bang, ưu thế của chủ nghĩa liên bang đã được tái khẳng định và chế độ nô lệ bị xóa bỏ.

“… Thiết lập công lý”

Bản chất của nền dân chủ Hoa Kỳ được chứa đựng trong bản Tuyên ngôn Độc lập, với đoạn câu ngân vang “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng”, và những khẳng định tiếp theo như “Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Hiến pháp không phân biệt con người theo của cải hay địa vị của họ; tất cả đều bình đẳng trước pháp luật, tất cả đều chịu sự phán xét và trừng phạt bình đẳng khi họ vi phạm pháp luật. Điều này cũng được áp dụng tương tự đối với các tranh chấp dân sự liên quan đến tài sản, giao ước pháp lý và dàn xếp kinh doanh. Được tự do tiếp cận tòa án là một trong những đảm bảo thiết yếu đươùc ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền.

“… Bảo đảm sự bình yên trong nước”

Sự ra đời đầy sóng gió của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và tình trạng bất ổn trên biên giới phía Tây đã khiến người dân Hoa Kỳ tin rằng cần có sự ổn định nội bộ để quốc gia non trẻ này có thể phát triển và phồn thịnh. Chính quyền liên bang được thiết lập theo Hiến pháp phải đủ mạnh để bảo vệ các bang trước sự xâm lăng từ bên ngoài và trước sự xung đột và bạo lực trong nước. Từ năm 1815 đến nay, không một mảnh đất nào trên lục địa Hoa Kỳ bị một nước ngoài xâm lược. Chính quyền các bang nhìn chung đủ mạnh để duy trì trật tự trong phạm vi biên giới của mình. Nhưng đằng sau họ là sức mạnh đáng sợ của chính quyền liên bang, được Hiến pháp trao quyền sử dụng những biện pháp cần thiết để gìn giữ hòa bình.

“… Chu cấp cho sự phòng thủ chung”

Ngay cả khi nền độc lập đã được đảm bảo, quốc gia non trẻ này vẫn phải đối mặt với những hiểm hoạ thực sự từ nhiều phía. Ơ± vùng biên giới phía tây, những người định cư phải đối mặt với mối đe doạ thường xuyên từ các bộ lạc Anhđiêng thù địch. Ơ± phía bắc, người Anh vẫn sở hữu Canađa mà các tỉnh miền đông đông nghịt những người bảo thủ Mỹ đầy hằn thù, những người vẫn trung thành với Vương triều Anh trong Chiến tranh Cách mạng. Người Pháp sở hữu vùng lãnh thổ Lousiana rộng lớn ở miền trung –   tây lục địa. Ơ± phía nam, người Tây Ban Nha chiếm giữ Florida, Texas và Mêhicô. Cả ba cường quốc châu Âu này đều có thuộc địa ở vùng biển Caribê, nằm trong phạm vi có thể tiến công bờ biển nước Mỹ. Ngoài ra, các quốc gia châu Âu còn đang bị lôi cuốn vào một loạt cuộc chiến lan tràn cả sang Thế giới Mới.

Trong những năm đầu, mục tiêu của Hiến pháp nhằm chu cấp cho “sự phòng thủ chung” tập trung vào việc mở mang lãnh thổ liền bên kia dãy núi Appalachian và thương lượng hòa bình với các bộ lạc thổ dân Mỹ sinh sống ở khu vực đó. Tuy nhiên, trong một thời gian ngắn, việc nổ ra chiến tranh với Anh năm 1812, những cuộc đụng độ với người Tây Ban Nha tại Florida và cuộc chiến tranh với Mêhicô năm 1846 đã làm nổi rõ tầm quan trọng của sức mạnh quân sự.

Sức mạnh kinh tế và chính trị của Hoa Kỳ tăng lên khiến cho sức mạnh quốc phòng cũng trở nên hùng mạnh. Hiến pháp phân chia trách nhiệm quốc phòng giữa hai ngành lập pháp và hành pháp: chỉ Quốc hội mới có quyền tuyên bố chiến tranh và phân bổ ngân sách cho quốc phòng, tuy tổng thống là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và chịu trách nhiệm cao nhất đối với công cuộc phòng thủ đất nước.

“… Đẩy mạnh phúc lợi chung”

Vào cuối cuộc Cách mạng, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ở trong một hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Các nguồn lực bị cạn kiệt, uy tín bấp bênh và tiền giấy cũng chẳng có chút giá trị gì. Thương mại và công nghiệp gần như ngừng hoạt động, các bang và chính quyền liên bang gần như chìm ngập trong nợ nần. Tuy nhân dân không phải đứng trước nguy cơ chết đói nhưng triển vọng phát triển kinh tế quả thực rất mong manh.

Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của chính quyền quốc gia mới là phải đặt nền kinh tế lên một nền tảng vững chắc. Điều khoản đầu tiên trong Hiến pháp quy định rằng: “Quốc hội sẽ có quyền đặt ra và thu các loại thuế… để thanh toán các khoản nợ… và chu cấp cho phúc lợi chung của Hợp chúng quốc”.

Quyền thu thuế đã giúp cho chính quyền thanh toán những khoản nợ trong chiến tranh và đặt đồng tiền lên một nền tảng vững chắc hơn. Bộ trưởng tài chính được bổ nhiệm để theo dõi các công việc tài chính của đất nước và bộ trưởng ngoại giao được bổ nhiệm để xử lý các quan hệ với các nước khác. Bộ trưởng chiến tranh cũng được bổ nhiệm để chịu trách nhiệm về an ninh quân sự của cả nước, và Tổng chưởng lý được bổ nhiệm làm công việc của quan chức cao nhất của chính quyền liên bang trong việc bảo vệ luật pháp. Sau đó, khi đất nước được mở rộng và nền kinh tế trở nên phức tạp hơn, thì phúc lợi của người dân đòi hỏi phải thành lập thêm các cơ quan hành pháp khác.

“… Bảo đảm lợi ích của tự do cho bản thân chúng ta và cho các thế hệ mai sau”

Việc nhấn mạnh đến quyền tự do cá nhân là một trong những đặc trưng nổi bật của nền cộng hòa mới ở Mỹ. Phần đông xuất thân từ một hoàn cảnh bị đàn áp về tôn giáo và chính trị, người dân Mỹ quyết tâm giữ gìn tự do tại Thế giới Mới. Những người xây dựng Hiến pháp, trong khi trao quyền cho chính quyền liên bang, đã thận trọng bảo vệ các quyền của mọi người bằng cách giới hạn quyền lực của cả chính quyền liên bang lẫn các chính quyền các bang. Kết quả là, người dân Mỹ được tự do đi lại, tự quyết định về công ăn việc làm, tôn giáo và niềm tin về chính trị, tìm đến tòa án để có công lý và sự bảo vệ khi họ cảm thấy những quyền này bị vi phạm.

Đại ca Hai Miêng (Gò Công) và chuyện dân Cầu Muối lập miếu thờ

Đình làng Nam bộ cũng như Sài Gòn vốn được bà con trong làng góp công, của xây dựng để thờ vị thần Thành Hoàng phù hộ cho làng. Có...

Yến lão

"Yến" là tiệc rượu. Nhiều làng có tục yến lão, hàng năm hay hai ba năm một lần, thết tiệc mừng thọ các quan lão. Có thể nói đây là...

Những nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của vương quốc Champa

Cuộc xung đột nội bộ diễn ra liên tục nhiều thế kỷ là một nguyên nhân quan trọng đưa vương quốc Champa đến chỗ diệt vong. A – VẤN ĐỀ...

Mùa Vọng và Giáng Sinh

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm“ Trước 2000 năm Chúa giáng sinh, các dân tộc trên thế giới đều có những ngày...

Bốn chữ “lạnh” trong đối nhân xử thế

Trong bộ sách xử thế “Thái Căn Đàm” thời nhà Minh có câu: “Lạnh mắt nhìn người, lạnh tai nghe tiếng, lạnh tình cảm thụ, lạnh tâm suy ngẫm”. Bốn...

Ông Đạo – một hiện tượng tôn giáo lý thú ở Nam Bộ

Trong những chuyến khảo sát điều tra điền dã dân tộc học ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, tôi đã được nghe nhiều chuyện về ông Đạo. Đọc một...

Thế nào là anh hùng?

Anh hùng là một con người thực sự hoặc một nhân vật hư cấu, đã chiến đấu với nghịch cảnh thông qua những chiến công của sự khéo léo, can...

Lịch sự trong lời nói

Người lịch sự phải tránh đi lời nói thô lỗ, tục tằn. Trái lại, trên môi họ luôn có những tiếng như cám ơn, xin lỗi… Cám Ơn Khi chúng...

Ảnh cổ Việt Nam và tư liệu – Phần 8

Những bức ảnh Việt Nam xưa được sưu tầm từ nhiều nguồn giúp chúng ta hình dung được khung cảnh Việt Nam trong quá khứ. Mời quý vị cùng xem....

Ảnh “độc” về con lai Việt – Mỹ sau chiến tranh Việt Nam

Cuộc sống của những đứa trẻ con lai mẹ Việt - bố Mỹ đã được nhiếp ảnh gia Philip Jones Griffiths lột tả chân thực qua những bức ảnh chụp năm 1985....

“Xã Tắc” trong “Giang Sơn Xã Tắc” mang hàm ý gì?

Trong Giang Sơn Xã Tắc thì Giang Sơn có nghĩa là sông núi, vậy còn Xã Tắc có nghĩa là gì? Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh giảng...

Phan Liêu, Đặng Dung và Nguyễn Trãi: Ba ngã rẽ của số phận

Nguyễn Trãi, Đặng Dung và Phan Liêu đều có tâm sự riêng trước hoàn cảnh bế tắc của dân tộc. Cả ba đều sinh ra và lớn lên cùng thời...

Exit mobile version