Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Đại Việt sử ký toàn thư – bộ sách được viết trong hơn 200 năm

Đây là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến nay, di sản vô giá của văn hóa dân tộc Việt Nam, kho tư liệu phong phú không những cần thiết cho ngành sử học mà còn giúp ích cho nhiều ngành khoa học xã hội khác và cũng là một bộ sử có giá trị văn học.

“Đại Việt sử ký toàn thư” là bộ chính sử lớn bậc nhất của nước ta trong suốt chiều dài lịch sử với những tư liệu quý, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu lịch sử dân tộc sau này. Để hoàn thành bộ sách này, các tác giả phải trải quan quãng thời gian hơn 200 năm biên soạn, chính sửa.

Bộ sử này được hoàn thành bởi các sử gia của nhà Lê gồm: Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Lê Hy, Phạm Công Trứ. Trong đó, Ngô Sỹ Liên là người đầu tiên chấp bút biên soạn, Lê Hy, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ là những người tiếp theo chỉnh sửa, bổ sung để có được bộ sử hoàn chỉnh như ngày nay.

“Đại Việt sử ký toàn thư” lần đầu được hoàn thành năm 1479, thời vua Lê Thánh Tông của nhà Hậu Lê, bao gồm 15 quyển, do một mình sử thần Ngô Sĩ Liên biên soạn. Sau khi hoàn thành, bộ sử lại không được khắc in ban hành rộng rãi, tiếp tục được nhiều đời sử quan trong Quốc sử quán sửa đổi, bổ sung, phát triển thêm.

Dưới thời vua Lê Huyền Tông, chúa Trịnh Tạc hạ lệnh cho nhóm văn quan, đứng đầu là Tham tụng Phạm Công Trứ sửa chữa bộ quốc sử của Ngô Sĩ Liên, đồng thời sai biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1428 đến năm 1662. Bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, gồm 23 quyển, được đem khắc in để phát hành nhưng công việc chưa xong, phải bỏ dở.

Khoảng niên hiệu Chính Hòa (1680-1705) đời vua Lê Hy Tông, chúa Trịnh Căn hạ lệnh cho một nhóm văn quan, đứng đầu là Tham tụng Lê Hy, tiếp tục khảo đính bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, đồng thời biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1663 đời vua Lê Huyền Tông đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông. Bộ quốc sử này lấy tên “Đại Việt sử ký toàn thư”, theo đúng tên mà sử gia Ngô Sĩ Liên cách đó gần 200 năm đã đặt cho bộ sử của ông, gồm 25 quyển, được khắc in toàn bộ và phát hành thành công vào năm Chính Hòa năm thứ 18 đời vua Lê Hy Tông (1697). Như vậy, tính từ khi Ngô Sĩ Liên hoàn thành năm 1479 đến khi được in khắc lần đầu năm 1697, bộ quốc sử này được hoàn thành trong 218 năm.

Bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên được viết trên cơ sở kế thừa bộ “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu thời Trần. Trong cuốn sách của mình, Ngô Sĩ Liên đã tham khảo, trích dẫn rất nhiều câu nhận xét của Lê Văn Hưu trong “Đại Việt sử ký”. Chính nhờ trích dẫn này, hậu thế mới phần nào hiểu được nội dung của bộ “Đại Việt sử ký” do Lê Văn Hưu biên soạn đã bị thất lạc.

“Đại Việt sử ký toàn thư” được chép bằng Hán văn theo thể Biên niên. Bộ sử bắt đầu bằng Kỷ Hồng Bàng, chép từ thời vua Kinh Dương Vương (1789 TCN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông). Đây là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến nay, di sản vô giá của văn hóa dân tộc Việt Nam, kho tư liệu phong phú không những cần thiết cho ngành sử học mà còn giúp ích cho nhiều ngành khoa học xã hội khác và cũng là một bộ sử có giá trị văn học. Những bộ sử về sau của nước Việt đều được biên soạn dựa trên cơ sở của Đại Việt sử ký toàn thư.

Tượng đài trước năm 1975 ở Sài Gòn

Nơi đặt tượng Trần Hưng Đạo, Phù Đổng Thiên Vương, An Dương Vương hay Trần Nguyên Hãn là những địa điểm quen thuộc với người dân Sài Gòn. Mỗi tượng...

Đức tính của người có hàm dưỡng cao

Các bậc hiền triết xưa nay đều cho rằng, đối với hành vi của một người, điều đáng ca ngợi nhất chính là “có giáo dưỡng”. Đối với nội tâm...

Các loại xe máy trước năm 1975 – 60 năm trước người Sài Gòn xưa đi xe gì?

Có thể nói xe đạp và xe gắn máy là phương tiện di chuyển chiếm đa số tại miền Nam trước 1975 và cho đến nay. Bài viết hệ thống...

Vài bức ảnh gợi nhớ về Sông Sài Gòn xưa

Sông Sài Gòn có bến phà Thủ Thiêm, có bến Bạch Đằng với những thương thuyền tấp nập chuyển vận hàng hoá, đó là hình ảnh thật khó phai mờ...

Ngọc bất trác bất thành khí

Trong sách “Tam Tự Kinh” viết: “Ngọc bất trác bất thành khí. Nhân bất học bất tri nghĩa”. Một khối ngọc quý nếu không trải qua quá trình đẽo gọt, tạo...

Ca Dao, Dân Ca, Kinh Xáng, Cửu Long

Đồng bằng sông Cửu Long, phần đất cuối cùng của tổ quốc, chặng đường chót của cuộc Nam tiến mở rộng cõi bờ, nơi có điều kiện khí hậu thuận...

Con tuấn mã Nê Thông của vua Trần Duệ Tông

Nê Thông là con ngựa của vua Trần Duệ Tông, một con tuấn mã cực kỳ hiếm hoi. Nó là con ngựa mà nhà vua đã cưỡi khi thân chinh...

Vì sao đôi khi mí mắt của chúng ta bị co giật?

Hiện tượng mí mắt co giật đôi khi là bình thường nhưng cũng có thể là dấu hiệu báo trước về vấn đề sức khỏe có thể xảy ra. Mí...

Việt tộc dựng nêu ngày Tết

Cây nêu là một từ 100% của Việt tộc ,vì cùng ăn Tết Nguyên Đán song người Tàu không có tục dựng cây nêu trước sân như người Việt Cắm...

Hành trình về thời đại Hùng Vương dựng nước (P7, 8, 9)

CHƯƠNG VII. THIÊN NHIÊN THỜI ĐẠI DỰNG NƯỚC Địa bàn phân bố của các trống đồng Đông Sơn cùng tất cả các tài liệu khác: tài liệu khảo cổ học,...

Cây cầu quay độc nhất của Sài Gòn xưa

Được người Pháp xây dựng, cầu Khánh Hội vào thời điểm nhất định trong ngày được xoay ngang để tàu thuyền qua lại thông thương trên kênh Tàu Hủ –...

Tại sao Trường Nữ Trung học Gia Long… tên là Gia Long?

Sài Gòn có 2 ngôi trường nữ sinh rất nổi tiếng là Gia Long và Trưng Vương. Tên của hai ngôi trường này đi vào thơ, vào nhạc rất nhiều....

Exit mobile version