Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Khoa cử ở Nam Kỳ dưới triều Nguyễn

Kỳ thi Hương đầu tiên dưới triều Nguyễn vào năm 1807 chỉ dành cho sĩ tử ở xứ Đàng Ngoài trước đây, lấy đậu 61 cử nhân. Ưu ái và vỗ về sĩ phu và nhân dân Bắc Hà chăng?

Khoa sau, 1813, Gia Long mới cho thiết lập một trường thi ở Kinh đô Huế và một trường ở Gia Định thành (trường Gia Định). Trường Gia Định được duy trì từ năm 1813 cho đến năm 1858, tổ chức được 19 kỳ thi Hương. Sau Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), trường An Giang (1864) thay thế cho trường Gia Định.

Tất cả 20 kỳ thi Hương ở Nam Kỳ (1813-1864) tuyển chọn được 274 cử nhân. Kỳ lấy đỗ cao nhất là 20 cử nhân vào các năm 1847, 1848 và thấp nhất là 8 cử nhân ở kỳ thi Hương đầu tiên (1813).

Có một sự kiện lạ lùng ít ai lưu tâm tìm hiểu và biết đến là 274 cử nhân thi đậu tại các trường thi Gia Định và An Giang, duy nhất chỉ có Lương Khê Phan Thanh Giản là đạt được học vị Tiến sĩ! Nếu kể thêm các cử nhân gốc Nam Kỳ thi ở các trường khác thì trước sau Nam Kỳ, suốt thời kỳ khoa cử dưới triều Nguyễn chỉ có 3 vị Tiến sĩ. Ngoài Phan Lương Khê đậu năm 1826, ba mươi năm sau mới có vị thứ hai là Phan Hiển Đạo (1856). Phan Hiển Đạo thi cử nhân ở trường Thừa Thiên vào năm Đinh Mùi (1847), đậu thứ ba và thi Hội, đậu Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1856). Vị tiến sĩ thứ ba là Nguyễn Chánh, người thôn Phú Mĩ Tây, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Nguyễn Chánh đậu giải nguyên tại trường Thừa Thiên khoa Mậu Ngọ (1858) và đậu Tiến sĩ (thứ 4) khoa Nhâm Tuất (1862), làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình và Tổng đốc Thanh Hóa.


Phan Thanh Giản

Nguyễn Thông

Có đôi điều đáng suy nghĩ:

Thứ nhất, tại sao các sĩ phu Nam Kỳ ít người đạt đến bậc cao nhất của Khoa cử dưới triều Nguyễn. Chỉ tính cùng thời gian từ năm 1822 đến năm 1865 thì toàn quốc có 280 tiến sĩ trong khi Nam Kỳ cùng thời gian trên chỉ có 3 tiến sĩ và trong số 274 cử nhân thi Hương tại Nam Kỳ chỉ có một tiến sĩ duy nhất đó là Phan Thanh Giản! Phan Thanh Giản là người khai khoa và trong suốt 30 năm (1826-1856), Phan là người trí thức tiêu biểu nhất của Nam Kỳ trong khoa cử và cũng là vị đường quan cao nhất ở Nam Kỳ trong triều đình Huế.

Phải chăng vua Tự Đức không có lựa chọn nào khác khi cử vị tiến sĩ đầu tiên và cũng là duy nhất trong số 274 sĩ tử Nam Kỳ đậu cử nhân, làm Khâm sai đại thần để ký kết với thực dân Pháp một hòa ước liên quan đến số phận ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (1862) ? Và cũng chính ông, chứ không ai khác được cử đi Paris và Madrid để chuộc lại Ba tỉnh miền Đông. Hòa ước Aubaret ký kết năm 1864 bị Pháp phủ nhận và Phan Thanh Giản lại được cử vào chức Kinh lược sứ tại Ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ.

Phan Lương Khê có thể có chọn lựa nào khác là chén thuốc đắng khi Ba tỉnh Miền Tây mất vào tay Pháp năm 1867!

Thứ hai, chúng ta cần ghi nhận là sĩ tử Nam Kỳ đáng cho chúng ta tự hào khi đã cùng nhân dân xả thân bảo vệ đất nước. Một số cử nhân đã đi vào lịch sử dân tộc như Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, cáa cử nhân Trương Gia Hội, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Thành Ý, Âu Dương Lân, Trương Minh Giảng, Trương Văn Uyển, , Trần Xuân Hòa, Đỗ Trình Thoại, Phan Văn Đạt, Lưu Tấn Thiện, Đinh Văn Huy …

So với những vị khoa bảng ở các vùng khác, các sĩ phu xuất thân từ khoa cử ở Nam Kỳ, trong công cuộc đấu tranh giữ nước, xứng đáng là niềm tự hào của nhân dân Nam Kỳ và nhân dân cả nước.

Bảng thống kê sau đây cho chúng ta biết thêm về khoa cử ở Nam Kỳ dưới triều Nguyễn :

Tổng cộng 20 kỳ thi Hương, lấy đỗ 274 cử nhân.

STT Khoa Số cử nhân Thủ khoa Ghi chú thêm
1 1813 8 Nguyễn Bảo Bang Khoa Hương đầu tiên ở Nam Kỳ
2 1819 12 Trương Hảo Hiệp Trương Minh Giảng
3 1821 16 Nguyễn Văn Kỳ (cùng khoa)
4 1825 15 Trương Phước Cang Trương Văn Uyển
5 1828 16 Mai Hữu Điển Phan Thanh Giản
6 1831 10 Đinh Văn Huy Hy sinh ở Campuchia, được lập đền thờ. Con là Đinh Văn Khoa, hy sinh ở Hà Tĩnh, cũng được lập đền thờ
7 1835 9 Bùi Hữu Nghĩa Cùng khoa
8 1837 11 Nguyễn Văn Triêm Trần Xuân Hòa
9 1840 11 Nguyễn Hoài Vĩnh Trần Thiện Chánh
10 1841 15 Hồ Đăng Phong Đỗ Trình Thoại
11 1842 16 Võ Duy Quang Phạm Hữu Chánh
(Án sát An Giang)
12 1843 15 Phạm Văn Trung Lưu Tấn Thiện
13 1846 18 Nguyễn Xuân Ý
(Bố chánh An Giang)
Phan Văn Đạt
(hy sinh, được lập đền thờ)
14 1847 20 Nguyễn Công Hài
(Án sát Hà Tiên)
Nguyễn Thông đậu thứ hai
15 1848 20 Nguyễn Đức Hoành Phan Văn Trị
16 1849 17 Võ Thế Tri Trương Gia Hội
17 1852 13 Nguyễn Hữu Huân Nguyễn Nùng Hương
18 1855 13 Nguyễn Tánh Thiện Nguyễn Thành Ý
19 1858 9 Lê Đình Sâm Âu Dương Lân
20 1864 10 Võ Doãn Xuân Thi ở trường thi An Giang

Tổng cộng 20 kỳ thi Hương, lấy đỗ 274 cử nhân.

Trương Định – Thủ lĩnh vĩ đại của nghĩa quân chống Pháp

Từ năm Tự Đức thứ 11 trở đi, đất nước đi vào khúc quanh lịch sử. Pháp bắt đầu đưa quân xâm chiếm đất nước ta: Tấn công Đà Nẵng...

Chuyện Ông Lãnh và 5 bà vợ nức tiếng Sài Gòn

Chợ Bà Chiểu, Bà Hạt, Bà Điểm, Bà Quẹo, Bà Hom thân thuộc với người Sài Gòn từ xưa đến nay được cho là mang tên 5 bà vợ của...

Kiến trúc cung Diên Thọ

Cung Diên Thọ nằm ở phía tây Tử Cấm Thành trong Kinh Thành Huế, phía trước cung Trường Sanhvà phía sau điện Phụng Tiên. Cung Diên Thọ được dùng làm...

Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Những vay mượn từ người Tàu

Có thể nói, bất kỳ một ngôn ngữ trên trái đất này cũng đều trải qua hình thức vay mượn từ các ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng về văn hóa...

Cơ sở hạ tầng và đời sống thị dân Sài Gòn xưa

Thời gian Charles Le Myre de Vilers giữ chức Thống đốc Nam kỳ tuy ngắn nhưng ông đã thiết lập kế hoạch đô thị và để lại nhiều công trình...

Tuổi Dần Ông Cọp quá ghê

Tuổi Dần ông cọp quá ghê Bắt người ăn thịt tha về non cao Tý Sửu Dần... Dần 寅 là ngôi thứ 3 của Thập nhị Địa Chi là... Ông Cọp, như...

Minh oan cho Petrus Ký về câu “Ở với họ mà không theo họ”

Có lẽ một trong những người gây nhiều tranh luận nhất trong lịch sử Việt Nam là ông Petrus Trương Vĩnh Ký (“Petrus Ký”).  Hơn một trăm năm sau ngày...

Tản mạn về chiếc Áo

Ai cũng biết cái áo là vật để che thân. Không biết nó xuất hiện từ lúc  nào, nhưng kể từ khi con người biết tìm cái gì đó để che...

“Ngũ hành sinh khắc” là gì?

“Ngũ hành sinh khắc” là gì? Ngũ hành là năm yếu tố nguyên thuỷ: kim (kim loại), mộc (gỗ), thuỷ (nước), hoả (lửa), thổ (đất). Ngũ hành sinh khắc là...

Sơ Lược Lịch Sử Giáo Dục Việt Nam (1954-1974): Dân Tộc, Nhân Bản, Khai Phóng

Bài nầy chỉ viết sơ lược về đường hướng giáo dục ở Việt Nam (VN) trong khoảng thời gian 1954-1974 (1974 là năm mà những tài liệu liên quan được...

Ký ức về con đường Hai Bà Trưng, Tân Định

Nhắc đến hai chữ Tân Định thì những ai sinh ra, lớn lên hoặc đã từng sống tại đây đều cảm thấy phấn chấn, sẵn sàng mở lòng trao đổi...

Giai thoại về dân chơi tại cầu đi bộ đầu tiên tại Sai Gòn

Độc đáo kiến trúc, cầu Ba Cẳng còn nổi tiếng bởi lời kể về những tay anh chị từng đình đám tại Chợ Lớn xưa. Cầu Ba Cẳng xưa thuộc...

Exit mobile version