Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Mạc Cảnh Huống – một vị khai quốc công thần dưới triều Nguyễn

Từ những tư liệu trong Châu bản triều Nguyễn đến gia phả dòng họ Mạc ở xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam đều cho thấy Mạc Cảnh Huống là người có nhiều công lao đối với nhà Nguyễn thời kì khai quốc.

Mạc Cảnh Huống (1542 – 1677), húy là Lịch, là con út của Thái tông Mạc Đăng Doanh và thứ phi Đậu Thị Giang. Ông xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc nhưng lại là một vị khai quốc công thần của nhà Nguyễn. Trong buổi đầu xây dựng vương triều Nguyễn, Mạc Cảnh Huống cùng với Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Hiệp đều là những người có công lớn.

Khu lăng mộ của Thống thủ Mạc Cảnh Huống nhỏ hẹp nằm trong khu dân cư.

Sau khi nhà Nguyễn thống nhất giang sơn, Nguyễn Ư Dĩ và Tống Phước Hiệp đều được truy tặng, chỉ duy Mạc Cảnh Huống là chưa được ban phong. Vì vậy, đến đời vua Duy Tân, Nguyễn Trường Dọc thay mặt dòng họ Nguyễn Trường ở xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam bẩm xin truy tặng, ban sắc văn cho Mạc Cảnh Huống để thờ tự. Căn cứ trên tờ bẩm và tư văn của tỉnh Quảng Nam, Phủ Phụ chính đã dâng tấu lên vua Duy Tân. Bản tấu xin truy tặng ban sắc văn cho Mạc Cảnh Huống này gồm 5 trang, có kí hiệu tờ 114, tập 3 Duy Tân, phông Châu bản triều Nguyễn. Trên văn bản có đóng dấu kiềm Phụ chính của Phủ Phụ chính và nét son châu điểm của vua Duy Tân.

Phần đầu của bản tấu ghi chép khái lược về sự trạng của Mạc Cảnh Huống như sau: “Hôm qua nhận được tư văn của tỉnh Quảng Nam trình bày: Căn cứ tờ bẩm của Nguyễn Trường Dọc họ Nguyễn Trường thuộc xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, nguyên là người huyện Tống Sơn, trình rằng: Thuỷ tổ ở triều trước là quan Thống binh, Thái phó truy phong Nguyên huân Nguyễn Trường Huống, cùng tổ đời thứ hai là Thượng tướng quân, về sau có công đánh giặc Cao Man bị tử trận mất tích, khẩn xin đề đạt ông tổ họ tộc đó được truy tặng ban sắc văn để thờ tự; thứ nữa nhận được ân dầy của triều đình. Tỉnh đó cung kính chiếu theo Liệt truyện tiền biên ghi chép Mạc Cảnh Huống người Nghi Dương, Hải Dương, là em của Khiêm vương Mạc Kính Điển, Hiếu Văn hoàng hậu tiên triều của bản quốc là cháu gái. Mùa Đông năm Mậu Ngọ (1558), Thái tổ Cao hoàng đế vào Nam trấn thủ đất Thuận Hóa, Cảnh Huống mang gia quyến đi theo. Trải làm quan tới chức Thống binh, tham gia trù tính nơi màn trướng. Cảnh Huống cùng với Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Hiệp đều là bậc công thần phụ tá thời sơ quốc. Con trai là Vinh (ban đầu họ Mạc, được ban quốc tính đổi là họ Nguyễn Trường), vào triều Hoàng đế Hy Tông lấy công chúa Ngọc Liên, làm quan đến chức Phó tướng, Lưu thủ Phú Yên; năm thứ 16 đánh dẹp bình định được giặc Phong có công, đặc biệt ban cho ấn son, công nghiệp vững bền mãi. Nay họ đó kêu trình mọi lẽ, phủ thần đã tư cho Quốc sử quán tra cứu trả lời. Nay nhận được phúc trả lời rằng Thực lục tiền biên ghi chép về sự trạng của Cảnh Huống và con trai là Vinh đều y như ghi chép trong Liệt truyện tiền biên. Lần đó Thái tổ Cao hoàng đế vào trấn thủ Thuận Hóa, Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Hiệp đều dẫn con em theo, cùng Cảnh Huống đồng lòng phụ tá, giúp dập, ba người là mệnh thần phụ tá thời sơ quốc có công.”1

Theo ghi chép trong Châu bản triều Nguyễn thì Mạc Cảnh Huống là người Nghi Dương, Hải Dương, là em của Khiêm vương Mạc Kính Điển, là chú ruột của Hiếu Văn hoàng hậu2. Mùa Đông năm Mậu Ngọ (1558), Thái tổ Cao hoàng đế3 vào Nam trấn thủ đất Thuận Hóa, sau đó Cảnh Huống mang gia quyến đi theo và trở thành bậc công thần phụ tá thời sơ quốc.  Chính bởi công lao to lớn của ông và sau này con trai là Cảnh Vinh lấy công chúa Ngọc Liên mà được theo quốc tính. Thực lục tiền biên chép về việc Mạc Cảnh Huống và con trai là Mạc Cảnh Vinh đổi sang họ Nguyễn như sau: “Kỷ Tỵ, năm thứ 16 (1629), mùa đông tháng 10 ….Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh (con trưởng Mạc Cảnh Huống lấy công chúa Ngọc Liên, cho theo quốc tính, sau đổi làm [hệ tính] Nguyễn Hữu) đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn Biên.”4 Đến thời Tây Sơn thì đổi sang họ Nguyễn Trường, sau này Mạc Cảnh Huống được truy phong Nguyên huân Nguyễn Trường Huống và trở thành thủy tổ của dòng họ Nguyễn Trường ở xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Theo gia phả của chi phái họ Mạc (Nguyễn Trường) ở xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam thì Mạc Cảnh Huống là người có tài quân sự, từng phò tá ba đời chúa Nguyễn, từ chúa Tiên Nguyễn Hoàng, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đến chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan. Trong thời gian phò tá các chúa Nguyễn, ông là vị tướng quan trọng của quân đội Đàng Trong, là người vạch ra chiến lược quân sự chống lại quân Trịnh ở Đàng Ngoài và bình định Chiêm Thành ở phương Nam. Đặc biệt, dưới thời chúa Tiên, ông là người có công lớn trong công cuộc Nam tiến, mở rộng biên giới về phía Nam. Có thể nói công lao ấy sánh ngang với Nguyễn Ư Dĩ và Tống Phước Hiệp.

Trong thời gian phụ tá chúa Tiên, Mạc Cảnh Huống luôn là người vạch đường lối, dâng kế sách, tham mưu nơi màn trướng, sớm khuya vất vả. Công lao của ông trong buổi đầu chúa Tiên khởi nghiệp được ghi lại trong Thực lục tiền biên như sau: “Kỷ Mùi, năm thứ 2 (1559), mùa thu tháng 8, Thanh Hóa và Nghệ An bị lụt, dân lưu tán nhiều vào miền Nam. Bấy giờ mọi việc bắt đầu. Chúa khuya sớm chăm lo, nghĩ việc củng cố căn bản. Nguyễn Ư Dĩ5 cùng bọn Tống Phước Trị6 (bấy giờ gọi là Luân quận công), Mạc Cảnh Huống cùng lòng hợp sức, quy hoạch nhiều phương, chúa đều thành thực tin dùng”7.

Đến đời chúa Sãi, ông đóng vai trò quan trọng trong đường lối hòa bình để bình định bộ tộc Man ở Ai Lao thường sang quấy nhiễu biên giới phía Tây. Năm 1627, ông lại góp phần vào chiến thắng đánh lui quân Trịnh khi chúa Trịnh Tráng cho quân tiến đánh Đàng Trong. Năm 1633, khi quân Trịnh định đánh Đàng Trong lần hai, ông đã vạch ra kế sách góp phần ngăn chặn sự tiến công của đội quân Đàng Ngoài này.

Mặc dù Mạc Cảnh Huống rất có tài quân sự nhưng ông cũng là người sùng tín đạo Phật. Vì vậy, ông phò tá chúa Thượng đến năm Mậu Dần (1638) thì xin từ quan để chuyên tâm tu hành. Khi đó, ông đã 96 tuổi. Ông chọn làng Trà Kiệu, huyện Diên Phước, dinh Quảng Nam (sau đổi là xã Trà Kiệu huyện Duy Xuyên; nay là xóm Hoàng Châu, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) để định cư.

Khi định cư ở làng Trà Kiệu, Mạc Cảnh Huống vẫn luôn một lòng hướng về Phật đạo. Năm Đinh Mùi (1667), ông cho trùng tu lại ngôi chùa trên đồi Bảo Châu tên là Bảo Châu Sơn tự và trụ trì tại đó, lấy pháp danh là Thuyền Cảnh Chân Tu. Tương truyền, nhờ tu luyện theo phương pháp thiền của đạo Phật mà Mạc Cảnh Huống sống tới 135 tuổi.

Từ những tư liệu trong Châu bản triều Nguyễn đến gia phả dòng họ Mạc ở xã Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam đều cho thấy Mạc Cảnh Huống là người có nhiều công lao đối với nhà Nguyễn thời kì khai quốc. Đặc biệt, công nghiệp đó vẫn được minh trưng trong sử sách, biên chép ở Đại Nam Liệt truyện tiền biên và Đại Nam thực lục tiền biên. Bởi vậy, khi vua Duy Tân lên ngôi (1907-1916), xét lại công lao của các huân thần thuở quốc sơ đã truy tặng cho Mạc Cảnh Huống là “Khai quốc công thần Tráng Vũ tướng quân, Đô thống phủ Chưởng phủ sự, húy Trung Trinh đưa vào thờ trong đền Trung Nghĩa khiến được thấm nhuần ân sâu mà báo đáp công lớn”8.

________________

Chú thích:

1.Phông Châu bản triều Nguyễn, Duy Tân tập 3, tờ 114.

2 Tức chúa Tiên Nguyễn Hoàng

3Hiếu Văn hoàng hậu tức Quận chúa Mạc Thị Giai là con gái của Khiêm vương Mạc Kính Điển, về sau trở thành vương phi của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.

4Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tiền biên, tập 1, tr.44, Nxb Giáo dục, H.2007.

5Có tài liệu viết là Nguyễn Ư Kỉ.

6Trong Châu bản triều Nguyễn viết là Tống Phước Hiệp.

7Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tiền biên, tập 1, tr.28, Nxb Giáo dục, H.2007.

Câu “Dở như hạch” ra đời như thế nào ?

Hồi nhỏ  hay nghe câu “Dở như hạch” mà không hiểu …. “Hạch” là gì ? Chà và “Hạch” là nhóm người Chà chuyên thức đêm giữ cửa và canh...

Tết Nguyên Đán và Lễ Nghênh Xuân

Nguyên = đầu, Ðán = buổi sớm mai. Nguyên Ðán là buổi sớm mai của đầu năm. Tết Nguyên Ðán là cái lễ đầu tiên của năm mới, vào ngày...

Thử Tộc Thán

Đại diện Thử tộc thế giới là một trưởng lão Chuột Tre Sumatra đứng im lặng trước máy vi âm để Ban Tổ Chức giới thiệu thành tích phá hoại...

Ăn Trông Nồi, Ngồi Trông Hướng nghĩa là gì?

Từ xa xưa, cha ông chúng ta thường hay nhắc nhở con cháu về cách cư xử thế nào cho thuận thảo với bà con ruột thịt trong thân tộc,...

Ngày xưa em anh hay hờn dỗi – Nhạc sĩ Anh Thy và bài hát “Hoa Biển”

Nhạc sĩ Anh Thy (có nơi ghi là Anh Thi) là nhạc sĩ nổi tiếng với các ca khúc Hoa Biển, Lính Mà Em, Đừng Gọi Anh Là Chú… Anh...

Họa tiết “Ðôi Mắt Tĩnh Lặng” trên tháp Champa Bình Định

Tháp Champa! Kalan Champa! Huyền bí và kiêu hãnh! Trang trọng và im lặng nhân gian đoán tới đoán lui vẫn chưa biết hết về Champa! Bức tường gạch đỏ...

Sài Gòn và Giai Cấp trong xã hội năm xưa

Nguồn gốc danh từ Saigon phát sanh khi người Pháp đặt chân lên mảnh đất miền Nam Việt Nam, được phiên âm theo tiếng Quảng Đông đọc là SICUNG, tiếng...

Giải mã lăng Hùng Vương

Trong bức ảnh đính kèm theo đây là kiến trúc gì, toạ lạc tại đâu và được xây cất vào niên đại nào? Ba chữ Hán ở giữa phần trên...

Lời kêu gọi chống giặc cướp nước của hoàng hậu Nam Phương

‘Tôi kêu gọi tất cả những ai đã đau khổ vì những tội ác gây nên bởi cuộc đại chiến, hãy hành động để chấm dứt những sự hung bạo...

Văn minh Maya – Kho tàng trí tuệ bí ẩn

Nền văn minh Maya được hình thành bởi người Maya – từ một bộ tộc thổ dân nhỏ bé ở châu Mỹ mà từ 2000 năm trước đây sống trên...

Từ Chữ Nôm Đến Chữ Quốc Ngữ

Hàng ngàn năm chúng ta phải dùng Hán tự coi như văn tự nước nhà. Từ ấu thơ người xưa đã phải học Tam Thiên Tự, Tam Tự Kinh, Ấu...

Mâm cơm gia đình, đâu đơn giản chỉ là đồ ăn thức uống

Ngày còn thơ bé, mãi đi chơi nên không về ăn cơm với gia đình, ai cũng bị mẹ bắt ép ngồi ăn, còn phụng phịu không chịu ăn. Đến...

Exit mobile version