Xin cho hỏi:
1. “Liều” trong “liều lĩnh”, “liều mạng” thì liên quan như thế nào với liêu 聊?
2. Đâu là từ nguyên của “bồ hòn”, “bồ kết”? “Bồ hòn” có phải là vô hoạn 無患? Có phải như Baidu nói là vì gỗ nó làm gậy đánh ma nên không còn hoạn (vô hoạn)? Còn có khổ hoạn 苦患, mộc hoạn 木患, du hoạn 油患… thì nghĩa là gì? Tiếng Tày, Thái cũng gọi là “mắc hón”, “co hón”; vậy có thể nghĩa gốc của “hoạn-hón-hòn” không phải là hoạn 患 (hoạn nạn) chăng? in Xin cám ơn.
1. Chúng tôi cho rằng liều trong liều lĩnh, liều mạng là âm xưa của chính chữ liêu 聊mà bạn đã nêu. Trong lĩnh vực từ nguyên học về những từ Việt gốc Hán thì những từ cùng gốc có phụ âm đầu l- mang thanh điệu 2 (dấu huyền) bao giờ cũng xưa hơn từ mang thanh điệu 1 (không dấu):
– là trong lụa là xưa hơn la 羅 trong la ỷ;
– làn trong làn sóng, làn gió xưa hơn lan 瀾 trong ba lan;
– lầu trong nhà lầu xưa hơn lâu 樓 trong cao lâu;
– liền trong liền liền xưa hơn liên 連 trong liên tục;
– liềm trong búa liềm xưa hơn liêm 簾 trong câu liêm;
– lò trong lò lửa xưa hơn lô 爐 trong hương lô; v.v..
Về âm thì như thế còn về nghĩa thì liều trong liều lĩnh, liều mạng xuất phát tữ nghĩa thứ 7 của chữ liêu 聊 trong Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) là “cẩu thả, khinh suất”. Mối liên quan này có thể được chứng minh bằng sự kết nối sau đây: cẩu thả, khinh suất > *không đắn đo chín chắn > liều. Ký hiệu “*” đánh dấu một cái nghĩa giả định và nhiều khi chính là nhờ loại nghĩa này mà người ta có thể tìm ra được nguyên từ (etymon) đích thực của một từ nhất định.
2. Theo chúng tôi thì bồ trong bồ kết là hệ quả của một sự loại suy từ những cấu trúc song tiết mà âm tiết đầu là bồ, nay đã mất nghĩa, như: bồ các, bồ cắt, bồ câu, bồ nông, và gần hơn nữa vì cùng chỉ thực vật là bồ hòn, bồ ngót, v.v.. âm tiết đầu đã bị bồ đồng hoá vốn là gì thì chúng tôi chưa tìm ra nhưng điều chắc chắn là âm tiết thứ hai (kết) có liên quan về nguồn gốc với yếu tố giáp trong tạo giáp 皂莢 của tiếng Hán. Bồ kết còn có một biến thể ngữ âm là bồ kếp và chính tiếng kếp này là bà con của giáp trong tạo giáp. Tiền thân của phụ âm đầu GI- trong nhiều yếu tố Hán Việt vốn là C-/K-, như:
– cà là tiền thân của già 笳 (= cà [cây, quả]);
– cắc (= hào) là tiền thân của giác 角
– cõi trong bờ cõi là tiền thân của giới 界 trong biên giới;
– cởi trong cởi mở là tiền thân của giải 解 trong giải phóng;
– kém trong kém cỏi là tiền thân của giảm 減 ở trong giảm thiểu;
– can trong can ngăn là tiền thân của gián 諫 trong can gián; v.v..
Tiền thân của -A- trong nhiều yếu tố Hán Việt vốn là -E-, nhu:
– beo trong cọp beo là tiền thân của báo 豹 trong hổ báo;
– mẹo là tiền thân của mão 卯 (một trong 12 chi);
– hen trong ho hen là tiền thân của han 鼾 (= ngáy);
– chén trong chén ngọc là tiền thân của trản 盞 trong ngọc trản;
– chém trong chém gió là tiền thân của trảm 斬 đó trong trảm mã trà;
và gần hơn nữa là:
– ép trong gò ép là tiền thân của áp 壓 trong áp lực
– bẹp trong đè bẹp là tiền thân của phạp 乏 trong khuyết phạp;
– kép trong áo kép là tiền thân của giáp 夾 trong giáp y,
Vậy tiền thân của giáp 夾 là kép mà kếp là một biến thể hậu kỳ, biến thể này lại “biến” một lần nữa thành kết và tồn tại cho đến ngày nay. Ba phụ âm cuối vần -P, -T và -K/C thỉnh thoảng vẫn hoán chuyển với nhau; ngay cả trong tiếng Hán thời cổ cũng vậy nên chẳng có gì lạ nếu tạo giáp 皂莢 còn có một biến thể là tạo giác 造角.
2b. – Tiền thân của bồ hòn là mồ hòn. Biến thể này nay đã tuyệt tích nhưng nó đã được ghi lại trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (từ thế kỷ XVII trở về trước):
Phất châu hiệu hột mồ hòn ((Bản phiên âm và chú giải của Trần Xuân Ngọc Lan, NXB Khoa học Xã hội, 1985, trang 220.)
Đây chính là người bà con cật ruột với hai tiếng vô hoạn 無患 mà bạn đã nêu. Nếu để ý đến ngôn ngữ nhà Phật, ta sẽ thấy hai tiếng nam mô được ghi bằng hai chữ 南模 . Nghĩa là tiếng mô đã được ghi bằng chữ vô 無 của bạn. Điều này không có gì lạ vì mô là âm xưa của chữ vô 無, xưa hơn nữa là mồ và đây chính là mồ trong mồ hòn. Mồ hòn trở thành bồ hòn, nghĩa là M- trở thành B- ở đây, thì cũng giống với các trường hợp: – mù nhìn trở thành bù nhìn; – mồ côi cũng nói thành bồ côi; – mồ hôi cũng nói thành bồ hôi; v.v., vì hai phụ âm đầu này có thể chuyển đổi với nhau trong những trường hợp mà chúng đứng đầu một âm tiết mất nghĩa, âm tiết này đứng làm tiếng trước của một cấu trúc song tiết.
Về mối quan hệ ngữ âm giữa hoạn và hòn, ta cũng có cần thổ cầu những cứ liệu cụ thể để chứng minh. Trước nhất, hòn là âm xưa của hoàn 丸 trong cao đan hoàn tán, mà trong Nam phát âm thành cao đơn huờn tán. Rồi về mối quan hệ giữa -OAN/- UAN với -ON, ta cũng có những dẫn chứng:
– đon trong ngay đon chính là điệp thức (doublet) của đoan 端 (= ngay, thẳng);
– đòn trong đòn bánh tét là điệp thức của đoạn 段 (= khúc ngắn); v.v..
Vậy ta có thể kết luận:
無患 (nay đọc là vô hoạn) > mồ hòn > bồ hòn.
Bồ hòn còn có một biến thể ngữ âm nữa là bòn hòn, như đã được ghi nhận trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh, Tịnh Paulus Của. Baidu nói là “vì gỗ nó dùng làm gậy đánh ma nền không còn hoạn nữa (vô hoạn)” thì chỉ là chuyện vọng văn sinh nghĩa mà thôi. Với chúng tôi thì ở đây, hoạn 患 chỉ là một chữ giả tá (mượn âm), đồng âm hoặc cận âm với hoàn 丸 là hòn, là cục (tròn), đúng với hình dạng quả bồ hòn. Còn những cái tên mà bạn đã nêu thì chỉ là tên địa phương của cây bồ hòn. Khổ hoạn 苦患 là tên của nó ở đảo Hải Nam; dân ở đây đã theo từ nguyên dân gian mà hiểu hoạn là tai vạ, bệnh tật nên mới đổi vô 無 thành khổ 苦 cho “đồng bộ”. Du hoạn 油患 là tên cây bồ hòn ở tỉnh Tứ Xuyên; thịt quả bồ hòn có nhiều chất tạo bọt, có thể dùng làm xà phòng nên dân ở đây mới thay chữ vô 無 bằng chữ du 油 là dầu. Còn mộc hoạn 木患 là tên của cây bồ hòn trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân. Ở đây chỉ xảy ra hiện tượng thay thế một chữ bằng chữ khác đồng âm hoặc cận âm với nó mà thôi: phụ âm đầu của mộc 木 là M-, phụ âm đầu cổ xưa của vô 無 cũng là M-.
Ba yếu tố “hoạn-hón-hòn” của Hán, Tày-Thái và Việt có quan hệ với nhau về nguồn gốc vì, với chúng tôi thì hón của Tày-Thái và hòn của Việt đều bắt nguồn từ hoạn của tiếng Hán. Trong tiếng Tày-Thái, hón cũng có nghĩa là cục, là vật tròn, giống như hòn trong tiếng Việt. Điều này giúp cho ta có thể suy luận “ngược chiều” mà nói rằng, trong tiếng Hán thì hoạn 患, chỉ là một chữ giả tá, được mượn để ghi tên của khái niệm hoàn 丸 là cục, là hòn mà thôi.