Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Cần kiệm thành đại sự

Trong cuốn Chu Tử Gia Huấn thời Minh nói rằng: “Dù là ăn một bát cơm hay một bát cháo, hãy nghĩ tới việc có được nó không dễ; Dù là nửa sợi tơ, sợi chỉ, khi dùng cũng cần trân trọng, nhớ tới lúc gian nan không có nó”. Ngày nay liệu có mấy người biết cần kiệm, biết trân trọng từng hạt cơm, từng sợi chỉ?

Tương tự như vậy, những vỏ gỗ thừa, những mẩu trúc nhỏ bé mà người khác vứt đi lại có thể làm được đại sự gì? Có câu thành ngữ “Trúc đầu, mục tiết” (vỏ gỗ thừa, mẩu trúc bỏ đi), là để ví von rằng có những sự vật nhỏ bé mà lại hữu dụng không ngờ. Thành ngữ này gắn liền với một vị quan thời Đông Tấn.

Cần kiệm thành đại sự
(Tranh minh họa qua Aboluowang.com)

Đào Khản, tự là Sỹ Hạnh, là một vị tướng lỗi lạc, một thi nhân điền viên nổi tiếng thời Đông Tấn. Từ khi còn nhỏ Đào Khản đã mất cha, gia cảnh bần hàn, cả nhà phải sống nhờ vào việc thêu thùa của người mẹ là Trạm thị. Sau này Đào Khản làm quan tới chức Thái uý, nắm trọng binh trong tay, cai quản việc quân sự của 8 châu và đảm nhiệm chức thứ sử Lưỡng Châu, Kinh Giang. Nhờ sự cai quản của ông, Kinh Châu được thái bình, an định, người đi đường cũng không nhặt của rơi. Ông được người dân vô cùng kính mến.

Đào Khản tính tình chất phác, giản dị, yêu mến và trân trọng đồ vật, không lãng phí vật chất. Ông không dễ dàng vứt bỏ bất cứ thứ gì, mà còn biến chúng thành những vật hữu dụng. Cuốn “Thế thuyết tân ngữ chính sự đệ tam” có chép lại câu chuyện của Đào Khản như sau.

Đào Khản vô cùng cần kiệm, lại nghiêm khắc, hành sự cẩn trọng, chu toàn. Khi đảm nhiệm chức thứ sử Kinh Châu, ông ra lệnh cho những quan viên đóng thuyền cất giữ toàn bộ những vỏ gỗ thừa, với số lượng không hạn chế. Mọi người đều không hiểu ông có dụng ý gì.

Sau này vào ngày đầu tháng Giêng, khi triều thần cùng tụ hội cũng là lúc tuyết bắt đầu tan, những bông tuyết trên đường tan chảy khiến mặt đất trơn ướt. Đào Khản liền lệnh cho thuộc hạ trải số vỏ gỗ thừa đó ra đường, tránh cho mọi người đi lại bị trơn trượt.

Khi trong phủ dùng trúc sào, Đào Khản thường bảo người hầu cất những đầu mẩu trúc sào thừa lại, chất cao như núi. Mọi người cũng không hiểu ông định làm gì.

Sau này Tuyên Vũ Hầu Hoàng Uẩn thảo phạt nước Thục cần đóng thuyền, Đào Khản mang những đầu mẩu trúc sào này làm đanh để nêm thuyền.

Chuyện Đào Khản trân trọng đồ vật trở thành điển cố cho câu thành ngữ “Trúc đầu, mục tiết” (đầu mẩu gỗ, trúc).

Đào Khản cần kiệm, yêu quý và trân trọng con người cũng như vật phẩm. Trong cuốn “Tấn thư Đào Khản truyện” thuật lại rằng: Một hôm, Đàn Khản mặc thường phục ra ngoài đi tuần, thì thấy một người tay cầm một nắm lúa còn chưa chín, bèn hỏi ông ta vì sao lại như vậy?

Người đi đường đáp: “Tôi đi qua ruộng lúa, thấy buồn chân buồn tay, nên tiện tay ngắt nắm lúa chơi mà thôi.” Đào Khản liền trách mắng rằng: “Ngươi không biết nỗi vất vả khi cấy trồng, mà dám tuỳ tiện phá hoại mùa màng nhà người khác!” Thế là ông cho bắt người này về đánh cho một trận. Từ đó bách tính càng biết trân quý sức lao động, nỗ lực chăm chỉ canh tác, nhà nhà đều cơm no, áo ấm.

Đào Khản tôn sùng đức tính cần kiệm, liêm khiết không thể tách rời khỏi sự giáo dục của mẹ. Trạm thị, mẹ của Đào Khản là một người mẹ hiền đức nổi tiếng Trung Hoa cổ đại. Bà được tôn xưng là một trong “Tứ đại hiền mẫu” cùng với Mạnh Mẫu, Âu Mẫu, Nhạc Mẫu (mẹ của Mạnh Tử, của Âu Dương Tu và của Nhạc Phi).

Trong cuốn “Tấn thư liệt nữ truyện” chép lại rằng: Khi còn trẻ Đào Khản từng làm tiểu lại tại nha huyện Tầm Dương, từng cai quản việc giao dịch thị trường cá. Một lần nọ ông cử người mang biếu mẫu thân một con cá trích. Trạm Thị trả lại cá và viết một bức thư trách móc Đào Khản rằng: “Con thân làm quan, mà lại mượn việc công mưu lợi riêng, mang cá về biếu ta, không những không thể khiến ta vui vẻ, mà ngược lại còn khiến ta thêm rối lòng.”

Cũng nhờ có sự giáo dục của mẹ mà Đào Khản trở thành một con người đức độ và cần kiệm như thế.

Người Việt thế kỷ 19 qua lăng kính sử gia Nhật

* Pháp Việt giao binh ký – Một tài liệu quý cho sự tu sử nước nhà Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt...

Câu chuyện chè Thưng

Chè thưng coi ngọt ngào vậy mà lại là món “khó ăn” nhứt cho tôi, trước do cái tên bí hiểm, sau vì quá khứ đầy bí ẩn của nó....

Hai bà Trưng và trang bi hùng sử tộc Việt

1 Vài nét về thời đại, những tư liệu gốc về Hai Bà Trưng và cuộc khởi nghĩa giành độc lập, tự do cho dân tộc Sau 97 năm dưới ách...

Tại sao gọi là tóc thề?

Các cô gái cô mái tóc thề trông thêm duyên dáng. Tóc thề vốn là một vài sợi tóc ngắn phất phơ hai bên trán và vành tai. Có những...

Những câu châm ngôn giúp bạn tỉnh ngộ

Lâm Tắc Từ có đúc kết “10 vô ích” được người đời coi là những câu châm ngôn kinh điển nhất của ông. Không chỉ người Trung Quốc mà người...

Hồn quê qua cổng làng xưa

Đối với người Việt, nhất là ở các làng quê miền Bắc, từ trước đến nay, mỗi khi nhắc đến quê hương không ai không nhớ đến cái cổng làng....

Đền thờ An Dương Vương – Đền thiêng giữa thành Cổ Loa

Tương truyền, đền thờ An Dương Vương ở thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) được xây trên nền nội cung của kinh đô Âu Lạc ngày trước. Trong khuôn...

Lột trần Việt ngữ – Kỳ 5/25 – Tài ba của Việt ngữ

Mẹ hát con khen hay thì chẳng được ai khen theo hết. Nhưng chúng tôi khen vì MẸ CHÚNG TA tài tình thật sự. Nam Dương và Nhựt Bổn đã...

Một người Huế ăn mì Quảng

Trong những món ăn của Quảng Nam, tôi có duyên với cao lầu và cao lầu gỗ ở Hội An rất sớm. Riêng món mì Quảng, thì cơ duyên đến...

Các chi tiết trên mái công trình kiến trúc phương Đông

1. Tích (脊): là đường bờ mái, các mặt của mái giao nhau tạo thành đường thẳng (hoặc cong) gọi là “tích”.  Có ba loại tích: Chính tích (正脊): Bờ...

Cà phê Sài Gòn thời ấy

Sài Gòn” Môt Thời Để Yêu Và Một Thời Để Nhớ Cho Những Ai Đã Lớn Lên Và Cắp Sách Đến Trường Ở Sài Gòn… Bạn đã uống cà phê...

Sài Gòn năm 1969

Những hình ảnh sinh động về Sài Gòn năm 1969 đã được tái hiện qua ống kính của George Lane, một cựu nhân viên quân sự Mỹ ở miền Nam...

Exit mobile version