Trong vòng bốn thập kỷ qua, dân số nhỏ bé của những người nhập cư Việt Nam tại Hoa Kỳ đã phát triển trở thành một trong những nhóm cư dân lớn nhất của đất nước này.
Người Việt Nam di cư sang Hoa Kỳ trong ba đợt, bắt đầu lần đầu tiên vào năm 1975 thời kỳ cuối chiến tranh chống đế quốc Mỹ, khi Sài Gòn sụp đổ dẫn đến việc sơ tán do Hoa Kỳ bảo trợ của khoảng 125.000 người tị nạn Việt Nam. Làn sóng đầu tiên này bao gồm chủ yếu là các quân nhân và dân thành thị, các chuyên gia có liên kết với quân đội Hoa Kỳ hay chính phủ miền Nam Việt Nam làm cho họ trở thành mục tiêu của các lực lượng cộng sản.
Trong cuối những năm 1970, làn sóng thứ hai của người Việt tị nạn vào Hoa Kỳ được gọi là cuộc khủng hoảng “thuyền nhân”. Nhóm này chủ yếu đến từ các vùng nông thôn và được giáo dục ít hơn so với lượt trước đó; nhiều người nhập cư gốc Trung Quốc chạy trốn khi Việt Nam xảy ra chiến tranh. Làn sóng thứ ba di cư vào Hoa Kỳ trong suốt những năm 1980 và 1990; không giống như những cuộc di cư trước đó, nhóm này chứa ít người tị nạn và bao gồm hàng ngàn con lai Việt Nam (trẻ em của các quân nhân Mỹ và bà mẹ Việt Nam) cũng như các tù nhân chính trị.
Kể từ khi kết thúc Chiến tranh chống Mỹ vào năm 1975, dân số nhập cư Việt Nam tại Hoa Kỳ đã tăng đáng kể, tăng từ khoảng 231.000 người năm 1980 lên gần 1,3 triệu người trong năm 2012, làm cho Việt Nam trở thành cộng đồng dân sinh ở nước ngoài lớn thứ sáu ở Hoa Kỳ. Sự tăng trưởng này xảy ra nhanh nhất trong những năm 1980 và 1990, khi dân số di dân Việt Nam tăng gần gấp đôi trong mỗi thập kỷ. Mặc dù những người tị nạn bao gồm hai làn sóng đầu tiên của người nhập cư Việt Nam, lần di cư tiếp theo chủ yếu bao gồm những người nhập cư đoàn tụ với người thân ở Hoa Kỳ. Tính đến năm 2012, người Việt chiếm khoảng 3 % tổng số dân sinh nước ngoài ở Hoa Kỳ, đứng ở mức 40,8 triệu người.
Hình 1: Dân số người Việt Nam nhập cư tại Hoa Kỳ Nguồn: Viện Chính sách di dân (MPI) lập bảng dữ liệu theo năm 2006, 2010
của Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ ,và 2012 của Cộng Đồng Khảo Sát Hoa Kỳ,và năm 1980, 1990, và 2000 theo kết quả điều tra dân số mười năm một lần.
Dân số của người nhập cư Việt Nam tại Hoa Kỳ lớn thứ tư châu Á, sau Ấn Độ, Philippines, và Trung Quốc. Ngoài phần lớn người nhập cư Việt Nam định cư tại Hoa Kỳ, những người khác cư trú tại Úc (226.000), Canada (185.000), và Pháp (128.000). Ngày nay, hầu hết những người nhập cư Việt Nam tại Hoa Kỳ có được hộ khẩu thường trú hợp pháp (tình trạng LPR) – hay còn được gọi là nhận được “thẻ xanh” – thông qua các kênh đoàn tụ gia đình, hoặc người thân ngay lập tức của công dân Hoa Kỳ hoặc là người nhập cư khác trong gia đình được bảo trợ; một số ít được thông qua các kênh tuyển dụng. Tính đến tháng 1 năm 2012, số lượng người nhập cư Việt Nam là những người nhập cư trái phép lớn thứ mười tại Hoa Kỳ.
Ước tính có khoảng 160.000 người Việt Nam nhập cư trái phép, đại diện cho 1 % của khoảng 11,4 triệu người nhập cư trái phép cư trú tại Hoa Kỳ.
So với tổng dân số nước ngoài sinh ra tại Hoa Kỳ, người nhập cư Việt Nam thường có trình độ tiếng Anh hạn chế và ít có khả năng được giáo dục đại học. Mặt khác, họ có nhiều khả năng hơn so với dân số nhập cư nói chung để được nhập quốc tịch Hoa Kỳ và có thu nhập cao hơn và tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn, và ít có khả năng là không có bảo hiểm.
Sử dụng dữ liệu mới nhất từ Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, Bộ An ninh Nội địa (DHS) Niên giám Di Trú và dữ liệu chuyển tiền thường niên của Ngân hàng Thế giới, điều nổi bật này cung cấp thông tin về dân số nhập cư Việt Nam tại Hoa Kỳ, tập trung vào kích cỡ, phân bố địa lý và đặc điểm kinh tế xã hội của người dân. US Census Bureau xác định người nhập cư nước ngoài tại Hoa Kỳ là những cá nhân không có quốc tịch Hoa Kỳ khi sinh. Người nhập cư bao gồm công dân nhập tịch, thường trú nhân hợp pháp, người tị nạn và dân tị nạn, người không nhập cư hợp pháp (bao gồm sinh viên, làm việc, hoặc thị thực tạm thời khác tại Hoa Kỳ), và những người định cư trong nước mà không được phép.
Các thuật ngữ người nước ngoài và nhập cư được sử dụng thay thế cho nhau.
- Phân bố theo bang và các thành phố lớn
- Trình độ tiếng Anh
- Giáo dục và học nghề
- Thu nhập và nghèo đói
- Di trú và nhập tịch
- Bảo hiểm Y tế
- Kiều bào
- Kiều hối
Phân bố theo bang và các thành phố lớn
Hình 2. Điểm đến của người nhập cư Việt Nam tại Hoa Kỳ, 2008 – 2012 Lưu ý: dữ liệu gộp ACS 2008-12 đã được sử dụng để có được ước tính có giá trị thống kê ở cấp bang và đô thị, cho vùng lãnh thổ có dân số nhỏ. Nguồn: Viện chính sách di dân (MPI) lập bảng dữ liệu từ Cục Thống kê Hoa Kỳ 2008-12 ACS
Các khu vực đô thị lớn với mật độ cao của những người nhập cư Việt Nam gồm có Los Angeles, San Jose, Houston, San Francisco và Dallas. Cùng với nhau, năm khu vực đô thị trên là nơi có khoảng 41 % dân số di dân Việt Nam trong giai đoạn 2008-12.
Hình 3: Những vùng đô thị đông người nhập cư Việt Nam tại Hoa Kỳ, 2008-12 Nguồn: MPI bảng số liệu của Cục Thống kê Hoa Kỳ gộp 2008-12 ACS.
Trình độ Tiếng Anh
Trong năm 2012, khoảng 68 % người nhập cư Việt Nam (độ tuổi từ 5 trở lên) là bị giới hạn khả năng sử dụng tiếng Anh (LEP), so với 47 % của người nhập cư Đông Nam Á, và 50 phần trăm của tổng số người nước nhập cư ở Hoa Kỳ. Ngoài ra, tỷ lệ người nhập cư Việt Nam chỉ nói tiếng Anh ở nhà là 7%, so với 11% của người nhập cư Đông Nam Á và 15% tổng số người nhập cư ở Hoa Kỳ.
Lưu ý: Giới hạn khả năng sử dụng Tiếng Anh đề cập đến bất kỳ người nào từ 5 tuổi trở lên được báo cáo rằng khả năng nói tiếng Anh là: “hoàn toàn không”, “không tốt” hoặc “tốt” trên bảng câu hỏi khảo sát của họ. Những cá nhân được báo cáo chỉ nói được tiếng Anh hoặc nói tiếng Anh “rất tốt” được coi là thông thạo tiếng Anh. Định nghĩa: Đông Nam Á là một tiểu vùng của châu Á được xác định theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ bao gồm Brunei, Myanmar, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam và Đông Timor
Giáo dục và học nghề
Trong năm 2012, khoảng 23% người Việt Nam tuổi từ 25 trở lên đã có bằng cử nhân hoặc cao hơn, so với 37% của người nhập cư Đông Nam Á và 28% người nhập cư ở Hoa Kỳ. (Tỷ lệ cho người dân Hoa Kỳ là 29 %.) Khoảng 83 % những người nhập cư Việt Nam trong độ tuổi lao động (18-64 tuổi), trong khi 13 % trong độ tuổi từ 65 trở lên. Độ tuổi trung bình cho những người nhập cư Việt Nam là 46, phù hợp với độ tuổi trung bình của những người nhập cư khác từ Đông Nam Á, nhưng cao hơn so với người nước nhập cư nói chung ở Hoa Kỳ (43), và người dân Hoa Kỳ (36).
Sáu mươi chín phần trăm của những người nhập cư Việt Nam (độ tuổi từ 16 trở lên) nằm trong lực lượng lao động dân sự vào năm 2012, tương tự như tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cho người Đông Nam Á sinh ra ở nước ngoài (68 %), và cao hơn so với dân nhập cư Hoa Kỳ nói chung (67 %) và người dân Hoa Kỳ (63%). Người dân nhập cư Việt Nam có nhiều khả năng được sử dụng trong các ngành nghề dịch vụ (32 %) so với người Đông Nam Á nhập cư (26 %), người nhập cư vào Hoa Kỳ nói chung (25 %), và người dân Hoa Kỳ (17 % ).
Hình 4: Người lao động nhập cư có việc làm trong lực lượng lao động dân sự (từ 16 tuổi trở lên) số liệu của Occupation and Origin, 2012 Nguồn: MPI bảng số liệu của Cục Thống kê Hoa Kỳ gộp 2008-12 ACS.
Thu nhập và đói nghèo
Trong năm 2012, thu nhập hộ gia đình trung bình trong số những người nhập cư Việt Nam là 55,736 $ thấp hơn đáng kể so với những người nhập cư từ Đông Nam Á ($ 65,488), nhưng cao hơn so với tổng số dân nhập cư ($ 46,983) và người dân Hoa Kỳ ($ 51,975). Mười lăm phần trăm người nhập cư Việt Nam sống trong nghèo đói vào năm 2012, cao hơn một chút so với tỷ lệ hộ nghèo cho người Đông Nam Á sinh ra tại Mỹ (12 %), nhưng tương đương với tỷ lệ hộ nghèo cho người dân bản địa (15%) và thấp hơn 19% dan nhập cư nói chung.
Di trú và nhập tịch
Trong năm 2012, khoảng 1.259.000 người Việt cư ngụ tại Hoa Kỳ, bao gồm 31% của 4 triệu sinh dân nhập cư từ Đông Nam Á, 11% của 11,9 triệu phần trăm dân nhập cư từ châu Á, và 3% của 40.800.000 tổng số dân nhập cư nói chung. Người nhập cư Việt Nam nhiều khả năng được nhập quốc tịch công dân (76%), so với 67% dân nhập cư từ Đông Nam Á và 46% của tổng số dân nhập cư vào Hoa Kỳ. Hầu hết các người Việt Nam di cư đến Hoa Kỳ trước năm 2000 (75%), 20% từ năm 2000 đến năm 2009, và 5% trong năm 2010 và sau đó.
Hình 5. Người nhập cư Việt Nam tại Hoa Kỳ theo thời gian đến, 2012 Nguồn: MPI bảng số liệu của Cục Thống kê Hoa Kỳ gộp 2008-12 ACS.
Người nhập cư Việt Nam sang Hoa Kỳ ờ thời điểm bắt đầu là một dòng người tị nạn, theo thời gian chuyển thành dạng đoàn tụ gia đình. Từ năm 1980, đã có một xu hướng giảm chung của người tị nạn Việt Nam đã tới hoặc đã được cấp tình trạng LPR tại Hoa Kỳ.
Người tị nạn Việt Nam và người Việt Nam nhập cư hợp pháp được
cấp hộ khẩu thường trú là người tị nạn và dân tị nạn, 1975-2012
Ghi chú: Các phần chấm của đường dành cho người đến tị nạn từ Việt Nam trước năm 1982 chỉ ra rằng những con số này ước tính thu được từ Bảng 7.2 trong “tị nạn Đông Nam Á di cư sang Hoa Kỳ” của Linda W. Gordon. Trong năm 1975, khoảng 125.000 người Việt Nam đến tị nạn ở Hoa Kỳ như là kết quả của một chương trình sơ tán do Mỹ bảo trợ sau khi kết thúc chiến tranh chống Mỹ. Từ năm 1976 đến năm 1977, số lượt người tị nạn đã giảm đáng kể phần lớn bởi vì Hoa Kỳ từ chối nhập cảnh cho cá nhân Việt Nam, ngoại trừ đoàn tụ gia đình.
Như một kết quả của việc tiếp tục các cuộc xung đột chính trị và sắc tộc trong khu vực Đông Nam Á, số người tị nạn từ Việt Nam và các nước láng giềng đã tăng đáng kể trong năm 1978 bắt đầu đối phó với cuộc khủng hoảng nhân đạo này, các nước phương Tây, trong đó có Hoa Kỳ, bắt đầu thừa nhận số lượng lớn người tị nạn từ khu vực, nhiều người đang sống trong các trại tị nạn. Nguồn: MPI lập bảng dữ liệu từ DHS, 2012 và 2002 Niên giám thống kê xuất nhập cảnh (Washington, DC: Văn phòng Di Trú Thống kê DHS), www.dhs.gov/yearbook nhập cư, thống kê; Di Trú và Nhập Tịch Hoa Kỳ (INS), Niên giám thống kê của Sở Di Trú và Nhập Tịch cho 1978-1996 (Washington, DC: Văn phòng in ấn chính phủ); INS, 1977, 1976, và 1975 Báo cáo thường niên (Washington, DC: Văn phòng in ấn chính phủ); Linda W. Gordon, “người tị nạn Đông Nam Á di cư sang Hoa Kỳ,” Trung tâm nghiên cứu các vấn đề di cư đặc biệt, 5 (3) (1987): 153-73; Rubén G. Rumbaut, “Di sản của chiến tranh: người tị nạn từ Việt Nam, Lào và Campuchia”, trong Nguồn gốc và Định mệnh: Nhập cư, chủng tộc, và sắc tộc ở Mỹ, biên soạn. Silvia Pedranza và Rubén G. Rumbaut (Belmont, CA: Wadsworth, 1996); Gail P. Kelly, “Đối phó với Mỹ: người tị nạn từ Việt Nam, Campuchia và Lào trong những năm 1970 và 1980,” Biên niên sử của Học viện chính trị và khoa học xã hội Hoa Kỳ, 487 (1996): 138-49.
Hầu hết những người nhập cư Việt Nam (99%), những người đã nhận thẻ xanh vào năm 1982 là những người tị nạn. Ngược lại, chỉ 2% của người nhập cư Việt Nam nhận được thẻ xanh trong năm 2012 là người tị nạn, trong khi 96% còn lại thuộc diện đoàn tụ gia đình. Đối với hầu hết những người nhập cư gần đây đều là thành viên gia đình của những người tị nạn trước đó và con lai từ Việt Nam.
Hình 7 Người nhập cư hợp pháp được cấp hộ khẩu thường trú, 1982 và 2012
Ghi chú: Gia đình bảo hộ liên quan đến thân nhân của công dân Mỹ và những người nhập cư khác trong gia đình bảo hộ; Việc làm dựa trên việc liên quan đến những người nhập cảnh vào Hoa Kỳ để làm việc hoặc đầu tư; Khác đề cập đến những người nhập cảnh vào Hoa Kỳ thông qua chương trình xổ số Visa và các lớp học linh tinh khác nhập học. Nguồn: MPI lập bảng dữ liệu từ DHS, 2012 Niên giám thống kê Di Trú (Washington, DC: Văn phòng DHS Di Trú Thống kê, 2013), www.dhs.gov/publication/yearbook-2012.
Bảo hiểm Y tế
Người nhập cư Việt Nam có nhiều khả năng có bảo hiểm y tế so với tổng số dân sinh ở nước ngoài, nhưng ít có khả năng hơn so với những người nhập cư từ Đông Nam Á và người dân Mỹ. Khoảng 22% người Việt không có bảo hiểm trong năm 2012, so với 17% của người Đông Nam Á sinh ra ở nước ngoài, 33% của tổng số dân sinh ở nước ngoài, và 12% người bản địa.
Hình 8: Những người nhập cư Việt Nam tại Hoa Kỳ theo Loại bảo hiểm Y tế, 2012 Lưu ý: Tổng số cổ phần của loại hình bảo hiểm có thể sẽ lớn hơn 100 bởi vì mọi người có thể có nhiều hơn một loại hình bảo hiểm. Nguồn: MPI lập bảng dữ liệu từ Cục Thống kê Hoa Kỳ 2012 ACS.
Kiều bào
Dân số kiều bào Việt Nam ở Hoa Kỳ bao gồm khoảng 2 triệu cá nhân được sinh ra hoặc là ở Việt Nam hay theo báo cáo là người gốc Việt, theo lập bảng dữ liệu từ 2008-12 ACS của Cục điều tra dân số Mỹ.
Kiều hối
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới tổng lượng kiều hối gửi về Việt Nam qua các kênh chính thức tương đương 11 tỷ USD trong năm 2013, chiếm khoảng 6 % của tổng sản phẩm quốc nội của đất nước (GDP),. Lượng kiều hối nhận được bởi Việt Nam đã tăng gấp mười lần kể từ cuối những năm 1990.
Bảng 9. Dòng kiều hối hàng năm về Việt Nam, 2000-13 Nguồn: MPI bảng biểu dữ liệu từ World Bank Prospects Group, “Dữ liệu tiền gửi hàng năm,” cập nhật vào tháng 4 năm 2014. Cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ chuyển về 5,7 tỉ USD kiều hối về Việt Nam năm 2012.