Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Tò he – Nghệ thuật độc đáo của người Việt

Chẳng biết từ bao giờ tò he đã trở thành một trò chơi của trẻ em Việt, dân gian ta còn lưu truyền những câu đồng dao cổ về món hàng độc đáo này như sau:

Tò he cụ bán mấy đồng? 
Con mua một chiếc cho chồng con chơi. 
Chồng con đánh hỏng thì thôi, 
Con mua chiếc khác con chơi một mình.

Xưa kia, tò he là sản phẩm mang nhiều ý nghĩa: chơi, ăn, cúng, lễ… Cái tên “tò he” cũng tồn tại trong dân gian từ khá lâu và người làm nghề có ở nhiều nơi, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là làng Xuân La, xã Phượng Dực, Phú Xuyên – Hà Tây. Theo lời một cụ già trong làng, nghề nặn tò he đã có lịch sử hơn 300 năm. Nhưng đến nay, vẫn chưa có tư liệu chính xác về việc tò he có từ bao giờ.

Hơn ba phần tư người dân làng Xuân La biết làm tò he. Từ những ông, bà tóc bạc đến những em bé chưa biết đọc, biết viết, tất cả đều biết nặn tò he. Người ta kể rằng trước kia, những người dân làng Xuân La có đôi tay khéo léo, thường dùng bột gạo để nặn các loại hoa quả trên mâm ngũ quả và con giống (trâu, bò, lợn, gà…) để làm đồ cúng lễ với màu sắc tự nhiên. Vì những thứ làm ra đều có thể ăn được nên ở một số vùng miền Bắc, người ta còn gọi là “con bánh” hay “đồ chơi chim cò”. Vì chúng tương đối giống đồ thực, lại có pha thêm chút đường nên trẻ con và người lớn đều rất thích.

Về sau, những vật phẩm này thường được gắn với một chiếc kèn ống sậy, đầu kèn có dính kẹo mạch nha, nguyên liệu làm bằng bột gạo hấp chín, màu sắc tươi rói và có nhiều chủng loại. Kèn có thể phát ra một thứ âm thanh hấp dẫn, khi thổi lên có tiếng kêu ngắt quãng tò… te… tò… te. Có lẽ vì thế người ta gọi là “tò te”, sau nói chệch thành “tò he”.

Làm nguyên liệu nặn tò he cũng không đơn giản. Khâu làm bột là bí quyết chính của nghề. Nếu làm bột không tốt thì khi bột khô dễ bị tróc, lở khỏi que. Nguyên liệu chính để làm tò he là bột gạo tẻ có trộn ít nếp theo tỉ lệ mười phần gạo, một phần nếp. Nếu thời tiết nóng, hanh khô thì cần phải cho thêm nhiều nếp để giữ được độ dẻo của tò he. Bột được trộn đều, ngâm nước rồi đem xay nhuyễn, luộc chín và nhào nhanh tay.

Sau rồi, người ta nắm bột lại thành từng vắt và nhuộm màu riêng. Bốn màu cơ bản là vàng, đỏ, đen, xanh. Trước đây, người ta sử dụng màu có nguồn gốc từ thực vật và đun sôi với một ít bột: màu vàng làm từ hoa hòe hoặc củ nghệ, màu đỏ từ quả gấc hoặc dành dành, màu đen thì đốt rơm rạ hoặc dùng cây nhọ nồi, màu xanh lấy từ lá chàm hoặc lá riềng… Các màu sắc trung gian khác đều được tạo từ bốn màu này. Bây giờ, màu thực phẩm công nghiệp được sử dụng vì tiện lợi hơn.

Tò he có sức hấp dẫn kỳ lạ, không chỉ đối với trẻ nhỏ mà còn đối với rất nhiều người ở đủ mọi lứa tuổi. Chỉ cần ít bột nếp màu với một que tre nhỏ, dài chừng 40 cm, là bàn tay tài hoa của người thợ sẽ khiến những hình ảnh trong trí tưởng tượng của mọi người phút chốc trở thành hiện thực. Theo dõi những động tác vê vê, nắn nắn những mẩu bột đủ sắc màu một cách khéo léo, mới thấy hết sức hấp dẫn của nghệ thuật này.

Với một bộ đồ nghề đơn giản gồm một con dao nhỏ, vài cái que tre và một chút sáp ong, những người thợ nặn tò he đến khắp các làng quê Việt Nam trong những ngày phiên chợ, lễ hội, để bán những sản phẩm mà mình làm ra.

Tò he từ lâu đã không còn chỉ là một thứ đồ chơi dân gian mang đậm hồn dân tộc, mà còn được xem như những tác phẩm nghệ thuật.  Nó không chỉ xuất hiện ở các hội làng, công viên, trường học mà còn có mặt ở các khách sạn, các hội chợ triển lãm, lễ hội lớn… Những người nghệ nhân đã làm ra các con tò he vô cùng sinh động, khiến du khách đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác với những động tác từ khi bắt đầu đến khi hoàn thành sản phẩm. Cầm con tò he trên tay, người ta không chỉ thán phục vẻ ngoài của nó, mà còn hít hà lấy cái mùi thơm mang đậm nét đồng quê tỏa ra từ bột nặn.

Tò he được coi là một thứ đồ chơi dân gian độc đáo. Mặc dù không sử dụng được lâu, chỉ giữ được trong khoảng từ 10 đến 30 ngày, nhưng tò he thật gần gũi với cuộc sống người Việt, với những hình ảnh giản đơn, mang cho người xem những tình cảm đặc biệt. Nó không chỉ là sự tích tụ của trí tuệ dân gian, mà nó còn mang theo cái hồn của làng quê Việt.

Đại thắng quân Xiêm trên sông Vàm Nao – Cổ Hủ, thêm một dấu son về niềm tự hào dân tộc!

Còn nhớ, tại cuộc hội thảo “Danh tướng Trần Văn Năng” tổ chức năm 1999 tại Thanh Bình (Đồng Tháp), qua những bài tham luận của các đại biểu, và...

Khoa Cử Việt Nam – Thi Hương – Phần 2: Chương 3 – Khảo quan

Thời Trần, Hồ, sử sách chép vài chi tiết về thi Hương nhưng không chép về việc cắt cử khảo quan đi chấm thi. Sang thời Hậu Lê tuy có,...

Vì sao người ta nới “Trời đánh tránh bữa ăn”

Người ta vẫn thường nói “Trời đánh tránh bữa ăn”. Câu nói này bắt nguồn từ câu nói “Lôi Công không đánh người đang ăn cơm”. Vậy nguồn gốc và hàm ý...

Tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt Nam

Bài viết này tư liệu cũng đã có phần cũ, LSTV xin mời bạn đọc theo dõi bài viết khảo cứu về nguồn gốc dân tộc Việt có cập nhật...

Tìm hiểu chi tiết về chiếc ấn vàng quyền lực “Hoàng đế chi bảo”

Kim bảo (ấn vàng) “Hoàng đế chi bảo” là một trong 20 Bảo Tỷ quan trọng bậc nhất của triều Nguyễn. Bảo Tỷ là chỉ “Con Dấu” của nhà vua...

5 đại dịch kinh hoàng trong lịch sử loài người

Những căn bệnh nguy hiểm có sức lây lan và gây thiệt hại không kém gì chiến tranh, thiên tai… 1. Đại dịch Antonine Ngược dòng lịch sử, chúng ta...

Sửa mũ vườn đào, sửa dép vườn dưa là gì?

Khi đi qua vườn đào, dù mũ đội đầu có bị lệch cũng không nên giơ tay lên sửa mũ, sẽ bị ghi là hái trộm đào. Khi đi qua...

Chuyện về vị tiến sĩ cưỡi bò thời Lê Trung hưng

Vào đầu thế kỷ 18, ở thôn Từ Ô, huyện Thanh Miện, Hải Dương, có ông Trần Văn Trứ thi đỗ Hoàng giáp đời Lê Hiển Tông, làm quan tới...

Bán đảo Sơn Trà năm 1966-1967

Trong thời chiến tranh Việt Nam, bán đảo Sơn Trà là nơi tập trung nhiều căn cứ quân sự quan trọng của Mỹ ở Đà Nẵng. Cùng xem những hình...

Tìm Hiểu Về Rượu Vang Và Bia Trên Bàn Tiệc Ngày Lễ Ở Hoa Kỳ

Hàng năm bắt đầu từ Lễ Tạ ơn, rất nhiều bữa tiệc mừng và tiệc ngày lễ đều không thể thiếu rượu vang và bia. Vậy những đồ uống này...

Các chuyến đi sứ sang Trung Hoa dưới triều Nguyễn (1802 – 1945)

Lịch sử bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa dưới triều Nguyễn (1802 – 1945) được phản ánh trong nhiều bộ sử biên soạn dưới triều Nguyễn, trong đó,...

Âm gốc của “khoái trá” là “quái chá”

Tại mục “Quán mắc cỡ”, Tuổi trẻ cười số 479 (1/7/2013) do Cô Tú phụ trách, độc giả Dương Văn Long (Thái Nguyên) có đặt câu hỏi: Trong cuốn Từ...

Exit mobile version