Site icon Tạp chí Đáng Nhớ

Từ mì đến miến và vằn thắn

Trong Từ điển tục ngữ Hán – Việt của Lê Khánh Trường . Lê Việt Anh (Nxb. Thế giới, 2002), các tác giả đã giảng câu Công yếu hồn đồn, bà yếu miến 公要魂屯,婆要麵 (Göng vào hún tun pó vào miàn) là “Ông thích mì vằn thắn, bà thích miến”. Chúng tôi muốn trao đổi với hai vị tác giả về cách dịch này.

Miến 麵 không có nghĩa là… miến

Vâng, miến 麵 không có nghĩa là miến. Điều này không có gì lạ. Nó cũng giống như chuyện salade của tiếng Pháp không có nghĩa là xà-lách vì salade là một danh từ chủng loại (générique) dùng để chỉ một số giống rau mà lá thường dùng để trộn giấm. Còn xà-lách của tiếng Việt thì hoặc chỉ là chicorée (rau diếp xoăn), hoặc chỉ là laitue (rau diếp) của tiếng Pháp mà thôi. Hoặc như mẫu đơn 牡丹 trong tiếng Hán không phải là mẫu đơn trong tiếng Việt (miền Bắc), mà trong Nam gọi là bông trang. Hoặc nữa, cũng như bàn của tiếng Việt thì tương ứng với tiếng Anh và tiếng Pháp table chứ không có nghĩa là mâm như bàn 盤 trong tiếng Hán. V.v.. và V.V…

Thế thì miến 麵 trong câu đang xét có nghĩa là gì? Thưa rằng đó là mì. Vâng, miến 麵 là mì. Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng giảng miến là: “Bột mì – Bột mì chế thành sợi nhỏ, tức sợi mì. Ta cũng gọi là mì” Các quyển từ điển tiếng Hán cũng giảng như thế. Nhưng, nói chung, các quyển từ điển đó còn chưa nói rõ về cái nghĩa sau đây: Mì là một món ăn lấy sợi mì làm nguyên liệu chính, trụng vào nước sôi cho chín rồi rưới nước dùng vào mà ăn. Đây là chỉ cái nghĩa đặc dụng một cách phổ biến ở các xe mì, tiệm mì của người Hoa; chứ có lẽ ai cũng biết rằng mì sợi còn có thể được chế biến theo cách khác, chẳng hạn như xào, chiên (rán), v.v… Đó là nói về nghĩa. Còn về âm thì người Quảng Đông đọc chữ miến 麵 là mìn: yâu mìn 幼麵 (ấu miến) là mì nhỏ; tshốu mìn 粗麵 (thô miến) là mì lớn; má mìn 孖麵 là (tô) mì hai vắt (âm Hán – Việt của chữ 孖 là tư/tử nhưng ở đây nó là một tục tự Quảng Đông). là một cách nói trại của mìn khi đi vào tiếng Việt. Điều này cũng chẳng có gì lạ vì từ tiếng Quảng Đông sang tiếng Việt thì một số tiếng/từ đã bị “rụng đuôi”, nghĩa là bị mất phụ âm cuối: phá xáng 花 生 (hoa sinh) thành phá xa; phẳn 粉 (phấn) thành phở; xuýn mụi 酸梅 (toan mai) thành xí mu(ộ)i, v.v…

Vậy miến không có nghĩa là miến, mà là mì. Trong tiếng Hán thì phấn ti 粉絲 hoặc phấn điều 粉條 mới có nghĩa là miến, mà trước 1954, người miền Nam gọi là bún Tàu.

Hồn đồn 琿飩 không có nghĩa là “mì vằn thắn”

Hồn đồn 琿飩 chỉ là vằn thắn chứ không phải “mì vằn thắn”. Vằn thắn là hình thức phiên âm của phương ngữ Bắc Bộ từ tiếng Quảng Đông oằn thắn 雲吞 (âm Hán – Việt là vân thôn – còn tiếng Anh thì phiên thành wonton). Nó đã được ghi nhận trong Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học do Hoàng Phê chủ biên (Nxb. Đà Nẵng – Vietlex, 2007), cùng với hai biến thể mằn thắn (cũng của miền Bắc) và mì thánh (của miền Nam). Quyển từ điển này giảng vằn thắn, mằn thắn, mì thánh là “món ăn làm bằng thịt giã hoặc băm nhỏ bao trong bột, ăn với nước dùng”. Vằn thắn đại khái là như thế.

Mì vằn thắn thì khác. Đây là món mà tiếng Bắc Kinh gọi là hún tún miàn 餛飩麵 (hồn đồn miến), tiếng Quảng Đông là oằn thắn mìn 雲吞麵 (vẫn thôn miến). Nó gồm có hai thành phần chính: mì và vằn thắn. Ở trong Nam, ít nhất cũng là tại Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định, người ta gọi nó là mì mì thánh.

Nhớ những kỷ niệm về cây ăng-ten và chuyện nghe nhìn ngày trước

“Quay qua trái chút xíu. Chưa trong ba ơi, qua phải chút xíu đi!” Đó là những câu nói quen thuộc thân thương ngày trước… Đi trên đường bây giờ,...

Khảo cứu về danh xưng Việt Thường

Trong các ghi chép lịch sử của Trung Quốc, thì Việt Thường là một cái tên xuất hiện trong nhiều ghi chép, chủ yếu là ở hai sự kiện: sự...

Ba cha tám mẹ là những ai?

Theo "Thọ mai gia lễ": Ba cha là: Thân phụ: Cha sinh ra mình. Kế phụ: Sau khi cha chết, mẹ lấy chồng khác, chồng mới của mẹ là kế...

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng: Sự thật và sai lạc

Trong 1000 năm vừa qua, nhiều Sứ thần Đại Việt ta đã tới cúng tế tại Đền Đức Trưng Vương bên bờ Hồ Đồng Đình.Theo Đại Việt Sử Ký Toàn...

Hoài niệm sân bóng tròn ngày xưa trước 1975

Theo tài liệu, thì sân bóng tròn đủ tiêu chuẩn đầu tiên tại Đông Dương được xây dựng năm 1906 bởi câu lạc bộ Cercle Sportif Saigonnais (CSS) trong khuôn...

Những trận hải chiến nổi tiếng trong lịch sử – Phần 1

PHẦN I : NHỮNG TRẬN HẢI CHIẾN NỔI TIẾNG THỜI CỔ ĐẠI Trận hải chiến Salamis Thời gian trận đánh: khoảng tháng 9 năm 480 BC Địa điểm: Eo biển Salamis...

Câu chuyện ăn Tết

1. Ăn Tết Đồng bào ta mỗi năm lo ăn "Tết" mà ít ai xét việc ăn ấy là nghĩa gì, phải nên than đáng nên làm hay là không,...

Đại lễ phục triều đình An Nam – Grande tenue de la cour d’Annam (1902)

Đây là bộ tranh vẽ thuốc nước và bột màu trên giấy, mô tả Phẩm phục sử dụng trong triều đình Huế – Việt Nam, được ghi là của Nguyễn...

Bánh Lọt – Lọt buốt vô…tim

Bánh Lọt được làm từ bột gạo xuất phát từ món ăn chơi ở nhà quê và chuyển thành thứ hàng bánh từ lúc nào chẳng ai để ý. Song,...

Dương Ngạn Địch – Vị tướng người Hoa từng giúp người Việt mở rộng miền Đông Nam Bộ

Dương Ngạn Địch (chữ Hán: 楊彥迪,?-1688), là một thủ lĩnh phản Thanh phục Minh, tổng binh của nhà Minh Trịnh ở Long Môn (龍門), Khâm Châu, Quảng Tây, Trung Quốc. Năm 1679, ông cùng tùy tùng đi thuyền sang thần...

Xích Lô Hà Nội

Trong tâm khảm của người dân Việt Nam, đâu đó vẫn còn hình dáng chiếc xe xích lô, một thời đưa đi đón về những thực khách nội địa và...

“Nửa năm tiên cảnh” và khúc tống biệt của Tản Đà

Viết về sự nghiệp thi ca của thi sĩ Tản Đà (1889-1939), sách Tự Điển văn học (tập II, 1984) chép: “Nhiều bài thơ của Tản Đà đã bước đầu...

Exit mobile version