Ngày nay, lề đường Sài Gòn ngày nay bị kinh tế thị trường tăng tốc xâm lấn quá nhiều, trở nên xô bồ, nên lại nhớ về lề đường Sài Gòn xưa.
Lề đường Sài Gòn xưa có hàng me, có sông Sài Gòn, có Bến Bạch Đằng, có những quán kem, quán càfé, quán ăn vỉa hè, nhất là các quán cóc lúc nào cũng bu quanh bởi đám học trò, sinh viên, trí thức, các thầy, các cô, giới lao động, giới taxi, giới xích lô, ba gác, bang bù…. Họ ăn đứng, ăn ngồi, những tô hủ tiếu, tô phở, bún riêu, bún ốc, bún bò, những đĩa ra-gu bánh mì, cà ri bánh mì thơm phức…, hay những chén Kem nhiều màu. Những ly cà phê đá. Những ly chè đậu xanh, đậu đỏ, sâm bổ lưỡng… vun đầy đá bào, đá nhận. Sài Gòn mà không còn ba món này, không có mấy hình ảnh này thì không còn là Sài Gòn nữa.
Những sinh hoạt bình dị này nhiều lúc lấn át cả những nhà hàng, những hotels: Continental, Caravelle, Pacific, Pagoda, Imperial, Givral… vì những thực khách của những quán ăn sang trọng theo kiểu Tây này cũng là những giới hâm mộ thường trực tại các quán cóc trên vỉa hè Sài Gòn. Ngoài những giới trí thức, nhà giàu người Việt, còn có cả những “ông Tây bà đầm”, những người ngoại quốc, Chà Và, Tàu, Cao Miên… Họ đến ăn ở đây, không phải chỉ vì nơi này họ mới có thể thưởng thức những món ăn thuần túy Việt nam, thuần túy Á đông, mà chính tại đây họ còn khám phá ra được nét đặt thù của Sài Gòn, của người Sài Gòn, của ‘Saigonaises’.
Lề đường Sài Gòn còn có những gánh hàng rong. Thương nhớ làm sao những tiếng rao hàng lúc nửa đêm trên lề đường của khu Bàn cờ, Nguyễn Thiện Thuật, Vườn Chuối, Chùa Kỳ Viên: “bánh ú hột vịt lộn, hôn?”, “bánh bò giò cháo quẩy bánh tiêu, hề”. Mới nghe thì không hiểu món gì, khi mua rồi, ăn thì cũng không thấy gì là tuyệt vời lắm, nhưng hương vị thật là gần gũi thân thương. Người ăn và món ăn gặp nhau như sư kết nghĩa. Đó là sư kỳ diệu của những lề đường Sài Gòn, không nhiều hương sắc màu mè nhưng thật đậm đà.
Xa Sài Gòn, không mấy ai xa được những ngã ba, ngã tư, ngã năm, ngã sáu, ngã bảy. Làm sao quên được lề đường của Ngã Tư Quốc Tế. Cái lề đường ấy Quốc tế thật. Quốc tế quá cỡ! Cứ vào lúc gần giờ giới nghiêm, các vũ trường Lido, Baccaret, Côte d’Ivoire… gần đó đóng cửa, các cô cava thoát ra choáng gần hết chỗ lề đường Ngã Tư Quốc Tế. Mặt còn bự son phấn hai tay bê tô cháo lòng, tô bún ốc nóng, thơm và cay mùi tiêu, các cô húp vội vào lòng để thỏa mãn cơn đói. Thế mới biết với các cô, “nhảy” chì là một nghiệp dĩ lao động dành cho cuộc sống độ nhật nuôi thân.
Sài Gòn có nhiều ngả. Đường Sài Gòn có nhiều lề. Người Sài Gòn đi trên nhiều lề đường. Sài Gòn có nhiều ngả đi cũng như ngả đến. Người Sài Gòn chưa từng bị bắt buộc đi trên một lề đường nào nhất định. Người Sài Gòn phóng túng đi trên đường Tự Do, Công Lý, Độc Lập, Thống Nhất… Lề đường Sài Gòn xưa đã từng mang những tên nói lên niềm ước mơ của thời hiện tại. Lề đường Sài Gòn chịu đựng hai mùa mưa nắng. Nắng Sài Gòn trong như thủy tinh như Trịnh Công Sơn từng ngợi ca. Nguyên Sa – Trần Bích Lan – đã từng đi dưới nắng của Sài Gòn mà cao hứng:
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông…”
Ố hay! Thế mới biết có sự liên kết trong tâm tưởng của Nguyên Sa giữa cái nắng của Sài Gòn và màu trắng của lụa Hà Đông năm nào. Cả hai đều để lại trong lòng người xa xứ những hoài niệm. Sài Gòn có những cơn mưa rào chợt đến chợt đi. Khi đến thì rạo rực như thác ngàn, như tình yêu “Em Sài Gòn”, khi đi thì lặng lẽ như mơ, để lại những lề đường ướt át, một chút ủ dột trong lòng người. Lề đường Sài Gòn cũng rất “thơ”: “Mưa Sài Gòn mưa Hà Nội” nghe như niềm thổn thức của Phạm Đình Chương, đứng dưới mưa, trên lề đường Sài Gòn, nhớ về năm cửa Ô Hà Nội! Thế mới hay, các nhà thơ, các văn nghệ sĩ đã nhìn thấy một Hà Nội giữa Sài Gòn thuở ấy…
Nói đến lề đường Sài Gòn mà không nói đến Vương Hồng Sển, Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê, thì coi như trớt quớt. Những ông già này đã hóa ra người thiên cổ. Nhiều người Sài Gòn không tin là mấy ổng đã chết. Mấy ổng còn đâu đó ngày ngày đi lại với họ trên lề đường Sài Gòn bán sách sol. Nhất là ông già Vương Hồng Sển, ông già này mới thật là ngộ. Ăn ở đời với Cô Năm SaĐéc hơn nửa thế kỷ mà chưa phỉ tình, ông còn bóng bẩy viết thành truyên ký: “Năm Mươi Năm Mê Hát”. Duyên Anh thấy vây mới bảo ông này già mà còn ham… Duyên Anh và cụ Sển đã về trời. Không hiểu họ đang ở đâu đâu? Mấy đời mà hai ông này chịu xa Sài Gòn. Biết đâu họ đang ngồi chồm hổm trên lề đường Sài Gòn bàn chuyện thế tục: “Sài Gòn Ngày Dài Nhất”, “Sài Gòn Tạp Pín Lù”…
Nói đến lề đường Sài Gòn thì nhớ Phạm Duy. Mỗi khi nhớ Phạm Duy thì phải nhắc tới lề đường Sài Gòn. Cụ Phạm Duy nghe ăn nói kiểu này chắc giận. Cụ sẽ rầy rà: “bỏ đi Tám – ‘tao’ mà thuộc bọn lề đường hả?”. Xin lỗi cụ Phạm, cụ ắt hẵn là người của lề đường Sài Gòn rồi. Mời cụ nghe nè: “Nghèo mà mình không ham. Xin cô em đừng nên quá đáng. Nghèo mà mình không ham. Xin anh hai đừng nên làng chàng…”. Sau khi xa xứ nhiều năm, đã hơn hai thứ tóc trên đầu, tụi nầy thỉnh thoảng vẫn nghêu ngao bài vỉa hè ca này của cụ, đôi khi thấy mắt mình cay xè, không hiểu tại nhớ cụ hay nhớ nhớ lề đường Sài Gòn. Có người bảo nhớ cả hai.
Lề đường Sài Gòn có những hình ảnh đẹp khó quên, có bác xích lô ngủ trưa ngay trên chiếc xích lô của mình dưới bóng cây me trên lề đường Sài Gòn, sau khi uống chai la de Trái Thơm – La Rue, và loáng thoáng nghe những bản nhạc tình cảm “Mùa Thu Chết” hay “Gái Lội Qua Khe” từ một quán cóc hay quán càfé gần đâu đó. Có người khách nhìn bác xích lô đang ngủ, họ lắc đầu, họ không dám đánh thức bác xích lô mặc dầu họ đang cần bác… Đó là tinh thần của lề đường Sài Gòn xưa. Đó là phong cách của người Sài Gòn xưa.
Cuộc sống trên lề đường Sài Gòn siêu thoát, phàm tục, trắng đen, xanh đỏ, chan hòa màu sắc và cảm xúc tạo thành bức tranh Lề-Đường-Sài-Gòn ngộ nghĩnh không giống ai hết, cũng không chịu cho ai giống mình. Đã có biết bao biến động lịch sử xảy ra trên vùng đất này, ấy thế mà mỗi khi chúng ta nhớ lại những kỷ niệm ở Sài Gòn, những lề đường Sài Gòn chúng ta cứ nghĩ như nhớ về một vùng đất nước thanh bình, thời vàng son của một đời người.