Trong “Luận Ngữ”, Khổng Tử viết: “Người quân tử thì thản nhiên thư thái, kẻ tiểu nhân thường hay lo lắng ưu sầu”, “Người quân tử không lo không sợ, kẻ tiểu nhân luôn thấp thỏm lo âu”. Trong dòng chảy dài của lịch sử, “quân tử” và “tiểu nhân”giống như hai phù hiệu vô cùng quan trọng, luôn được sử dụng để đánh giá nhân phẩm của một người.
Vì sao con người ta lo sợ và vì sao từ “lo lắng, sợ hãi” lại có thể nhìn ra người quân tử và kẻ tiểu nhân?
Mỗi người trưởng thành đều mang trong mình những kỷ niệm về một thời thơ ấu ấm áp, khó quên. Khi sinh mệnh còn nhỏ, tâm người ta không chứa tạp niệm mà trắng trong, không tỳ vết, thuần tịnh và giản đơn. Bởi vậy vào thời thơ ấu, chúng ta đều có rất ít cảm giác sợ hãi và lo lắng xuất phát từ tự thân.
Trẻ em sở dĩ có thể đối với cuộc sống mà “không lo không sợ”, không chỉ bởi vì chúng chưa có nhận thức đầy đủ về cuộc sống mà điều quan trọng hơn là chúng không để tâm đến “được” và “mất” trong cuộc sống. Đối với “được” và “mất”, chúng chỉ đơn giản là vui và buồn thoảng qua trong chốc lát rồi rất nhanh chóng có những sự tò mò mới.
Khi con người trưởng thành, bị các loại quan niệm xã hội xâm nhập vào, thì con người ta bắt đầu phát triển nỗi lo và sợ. Bởi vì mỗi người đều có tâm ích kỷ cho nên sẽ nghĩ nhiều về “được” và “mất”, khi đó vô số những nỗi lo sợ tự xuất hiện trong tâm chúng ta: lo cơm áo, sợ đói khát, lo già yếu, sợ bệnh tật, lo mất đi tài sản, sợ chết, lo không có được điều mình truy cầu…
Kỳ thực, suy cho cùng, nguyên nhất lớn nhất khiến con người ta phát sinh tâm lo sợ chính là sự ích kỷ và lòng tham. Khi chưa có được thì lo lắng làm sao để có được, được rồi lại lo cách để được nhiều hơn nữa, sợ những tài sản đang có sẽ mất đi… Bởi vậy, một người nếu như trong tâm không thể vứt bỏ hoàn toàn được nội tâm “ích kỷ, lo cho bản thân mình” thì vĩnh viễn không thể thoát khỏi sự lo lắng và sợ hãi.
Thời cổ đại, các bậc chính nhân quân tử đều là có thái độ đúng mực, tận lực thuận theo mệnh trời, tận lực giải quyết mọi việc một cách thỏa đáng, những sự tình không giải quyết được thì sẽ thản nhiên đối mặt mà trong lòng không lo không sợ. Người quân tử luôn tự kiểm điểm, soi xét lại trong lòng mà không thẹn với Trời, Đất, không lo, không sợ. Trong lòng hoàn toàn không có một chút thẹn và áy náy, chỉ có một nội tâm quang minh, một tấm lòng thanh tịnh, tường hòa, ấy mới là người quân tử. Đây thực sự là một cảnh giới tinh thần cao quý.
Trong “Luận Ngữ”, Khổng Tử còn viết: “Người quân tử gồm có ba đạo, mà ta chưa làm được đến mức ấy: Người nhân từ thì không lo lắng; Bậc trí giả thì không nghi ngờ; Người dũng thì không sợ hãi.”
Người quân tử nhân từ mà không lo, thủ vững nhân nghĩa, làm việc gì cũng công chính vô tư, không thẹn với lương tâm, bằng lòng với mệnh trời, không so đo lợi hại được mất, vì thế mà không lo. Người quân tử là bậc trí giả nên không có nghi ngờ, bất luận sự việc gì đều hiểu rõ, có thể phân biệt đúng sai, thật giả, vì thế mà vô luận là đối mặt với sự tình gì họ cũng sẽ không nghi hoặc. Người quân tử dũng cảm mà không sợ bởi họ có tấm lòng rộng rãi, sáng tỏ, ngửa mặt nhìn trời hay cúi xuống nhìn đất đều không thẹn, xét lại lòng mình mà không thấy cắn rứt, dũng cảm chịu trách nhiệm, làm việc trượng nghĩa, đúng lý hợp tình, nên gặp bất cứ chuyện gì cũng không sợ hãi. Một người “nhân, trí, dũng”, không lo, không nghi ngờ, không sợ thì mới là chính nhân quân tử.
Người quân tử đại biểu cho những gì là chân thật, lương thiện và tốt đẹp nhất. Trong khi đó, kẻ tiểu nhân thì hoàn toàn trái lại, đại biểu cho những gì là giả tạo, độc ác và xấu xa. Như thế nào được gọi là quân tử? Như thế nào được gọi là tiểu nhân? Thực sự, không thể dùng một hai câu để nói hết được định nghĩa về hai khái niệm này.
“Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt”, người quân tử hướng đến những điều cao cả, kẻ tiểu nhân lại hướng đến những điều thấp hèn. “Quân tử chu nhi bất bí, tiểu nhân bí nhi bất chu” , người quân tử an hòa với tất cả nhưng không cấu kết bè phái, kẻ tiểu nhân cấu kết bè phái mà không thật lòng ở cùng nhau. “Quân tử hoài đức, tiểu nhân hoài huệ”, người quân tử luôn nghĩ đến đạo đức còn kẻ tiểu nhân thì chỉ nhớ đến ân huệ mà mình đã giúp người khác. “Quân tử dụ vu nghĩa, tiểu nhân dụ vu lợi”, quân tử hiểu rõ về nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ về lợi. “Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái”, người quân tử thư thái mà không kiêu, kẻ tiểu nhân kiêu mà không thư thái. “Quân tử thản đãng đãng, tiểu nhân trường thích thích”, người quân tử lòng dạ rộng lớn, kẻ tiểu nhân thường xuyên âu sầu.
Phật gia giảng rằng người tu luyện không vì chuyện quá khứ mà đau buồn, không cầu những chuyện chưa tới của tương lai, họ luôn thấy đầy đủ, thỏa mãn, bởi vậy mà họ luôn lộ ra vẻ an hòa, tĩnh tại. Cũng giống như người tu luyện, người quân tử không lo không sợ, thản nhiên với được và mất, tiêu diêu tự tại, hẳn phải là kẻ sĩ đắc đạo mới có thể đạt đến cảnh giới đó.
An Hòa