Ký ức Sài Gòn với xe đò chạy bằng than
Đây là công nghệ Wood Gas, hoặc Green Gas ‘thân thiện môi trường’, sử dụng cây gỗ làm than củi, đã phát triển ở Âu Châu thời thế chiến thứ hai.
Hãy nhìn cái thùng đặt sau xe được làm bằng sắt, có đường kính 40 đến 50cm cao bằng 2 cái thùng “phuy”, treo đứng sau đuôi xe. Tên gọi là xe hỏa tiễn, do đeo cái bình đốt than phía sau… Bên trong thùng này chứa than củi được đốt cho cháy trong điều kiện thiếu không khí để tạo ra một loại khí ga cháy được. khí này chạy qua 1 bầu lọc thô sơ rồi được hút vào xy lanh, sau khi xe đã nổ máy với xăng.
Để xe chạy liên tục do than phải cháy trong điều kiện thiếu không khí nên có xu hướng tắt dần. Sau một quãng đường, anh lơ xe dùng một que sắt dài khều than, chọc tro cho than cháy tiếp. Than vụn cùng tro rơi vãi dọc đường xe chạy. Ai chạy xe máy mà bị nó tặng vài cục than đỏ rực trước mặt thì… phải biết.
Đây là công nghệ Wood Gas, hoặc Green Gas “thân thiện môi trường”, sử dụng cây gỗ làm than củi, đã phát triển ở Âu Châu thời thế chiến thứ hai
Tất nhiên xe chạy không mạnh tốc độ tối đa 30km/h nếu đường xá tốt, còn leo dốc thì cứ từ… từ…. Loại xe chạy than đã giải quyết việc đi lại trên những cung đường khoảng 100km trong những năm 76 đến 82 thế kỷ 20.
Bắt đầu tháng 12-1975, xăng dầu bắt đầu được cung cấp theo chế độ tem phiếu. Người dân phải “mang theo tờ khai gia đình, thẻ chủ quyền, thẻ căn cước, giấy giới thiệu của cơ quan hiện đang công tác, mang theo tiền lệ phí mỗi phiếu 0,04 đồng để đăng ký lấy phiếu cung cấp xăng”.
Tình trạng khan hiếm xăng dầu trở nên nghiêm trọng. Từ năm 1976, một phần xe cộ bắt đầu bị xếp xó vì không có nhiên liệu hoặc không có phụ tùng thay thế.
Những nhà trí thức lúc đó đã hướng dẫn áp dụng nhiều sáng kiến có giá trị trong sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân”. Sáng kiến đáng chú ý nhất là việc “độ chế thành công” xe ô tô chạy bằng than và củi: “Bộ phận lò hơi” của xe ô tô chạy than củi có thể sử dụng cho các loại máy bơm nước, máy tàu, máy điện.
Cùng với sự khan hiếm nhiên liệu, người đi xe cũng phải trải qua thời kỳ khó khăn. Hình ảnh hành khách được các lơ xe đón tận nơi, nâng từng túi hành lý, đỡ lên những chiếc xe của các hãng xe đò tư nhân đã nhanh chóng biến mất.
Mỗi khi có việc đi xa, người dân phải xếp hàng từ nửa đêm ở bến xe, nhưng sáng ra cũng không chắc có thể mua được vé. Lên xe rồi còn phải chịu đựng hành trình của những chuyến xe già nua, cũ nát không có phụ tùng thay thế; đường sá xuống cấp không có kinh phí bảo trì.
Phải đi trên những chiếc xe hoán cải từ chạy xăng sang chạy than, nếu may mắn tới đích, thì ngoại trừ hai con mắt, từ đầu đến chân của mọi hành khách đều bị bọc trong khói bụi.
Những chiếc xe than cà tàng đã lùi xa vào tâm trí người Việt, thỉnh thoảng vẫn được họ nhắc lại như tìm về quá khứ. Đối với người trẻ, đây có lẽ là chuyện cổ tích.