Trên thi đàn văn học Việt Nam thập niên 40-50 của thế kỷ trước, thi sĩ Huy Cận được mệnh danh là một nhà thơ đa tài. Theo nhiều nhà phê bình văn học, Huy Cận biết làm thơ từ năm 14 tuổi. Đến năm 16 tuổi, ông đã có thơ được đăng trên báo và năm 20 tuổi, nhà thơ giới thiệu tới độc giả tập thơ đầu tay với nhan đề Lửa Thiêng, ấn hành năm 1940.

Thi khúc và nhạc khúc "Ngậm Ngùi" (Huy Cận - Phạm Duy) - Nỗi đau của người anh trai thương em bằng trái tim của mẹ

Ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm có sự kết hợp nhuần nhị giữa chất cổ điển phương Đông và vẻ hiện đại phương Tây. Những bài trong Lửa Thiêng đã khẳng định tài năng của Huy Cận, đưa ông trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941) khi trào lưu thi ca này đang ở giai đoạn đỉnh cao với những tên tuổi như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu…

Đáng chú ý nhất trong tập Lửa Thiêng là bài thơ Ngậm ngùi với câu chữ rất truyền cảm, làm rung động lòng người:

Nắng chia nửa bãi chiều rồi…

Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.

Sợi buồn con nhện giăng mau;

Em ơi! hãy ngủ… anh hầu quạt đây.

Lòng anh mở với quạt này;

Trăm con chim mộng về bay đầu giường.

Ngủ đi em, mộng bình thường!

Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ…

Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…

Hồn em đã chín mấy mùa buồn đau?

Tay anh em hãy tựa đầu,

Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.

Những câu thơ trong bài Ngậm ngùi được thi sĩ viết để gởi đến ai?

Một thời gian dài sau khi bài thơ xuất hiện, kể cả giai đoạn lúc nhà thơ còn sống cũng ít thấy ai đặt vấn đề về nhân vật trong bài thơ đã tạo nên nhiều cảm xúc cho tác giả đến như vậy.

Gần đây, năm 1990, ông Cù Huy Chử, em ruột của Cù Huy Cận đã thổ lộ với nhà bào Trương Đình Tuấn về đời sống gia đình, cũng như hoàn cảnh sáng tác bài Ngậm ngùi. Ông Tuấn viết lại:

Quê Huy Cận ở Nghệ An, ông bố là một thầy đồ nho hết thời, tất cả trông nhờ vào sự tần tảo lam lũ của vợ. Ông bố là thầy đồ nên suốt đời chẳng làm ăn gì cả, ăn ở không suốt ngày ngồi gặm cái quạt buồm đến nỗi nó vẹt mòn mất cả cán. Nhà lại đông con, có đến 7 anh chị em.

Huy Cận rất thương cô em gái út. Vì nhà nghèo lại đông con nên ông phải vào Huế giúp việc cho một người bà con để được nuôi ăn học.

Ở nhà cô út chỉ quanh quẩn bên mẹ. Ngày xưa liên lạc đâu phải dễ dàng. Cô út khoảng 10 thuổi thì bị đậu mùa rồi qua đời. Nghỉ hè, Huy Cận về nhà mới biết em út đã mất.

Ông ra thăm mộ em ở cuối vườn, nơi có trồng mấy cây thông reo. Cỏ mắc cỡ lẫn cỏ dại trùm cả ngôi mộ”.

Sau khi ông Chử tiết lộ những chi tiết liên quan đến bài Ngậm ngùi thì một năm sau đó (1991), chính nhà thơ Huy Cận cũng xác nhận hoàn cảnh để sáng tác bài thơ đúng như em trai của ông đã nói: Viết sau khi thăm mộ của em gái nhỏ bạc mệnh.

Đến năm 2006, phát biểu trong một chương trình về Văn học nghệ thuật của Đài RFI, ông Cù Huy Hà Vũ là con trai của nhà thơ cũng khẳng định lại, bài thơ Ngậm ngùi được viết cho người em gái ruột của nhà thơ mất khi còn nhỏ, độ tuổi trăng rằm, khi nhà thơ đến thăm mộ em mình.

Tựa đề của bài thơ là Ngậm ngùi nên khi vào bài, tác giả vẽ nên cảnh buồn của chiều vắng, nắng cũng “chia nửa bãi”, như biết sẻ chia tâm sự buồn bã của lòng người anh trai khi ra thăm mộ em gái.

“Nắng chia nửa bãi chiều rồi” – Hầu như những người thích thi ca thời tiền chiến đều quen thuộc với câu thơ ấn tượng này, như lửng lơ giữa thực và mộng trong không gian tiếp giáp giữa ngày và đêm. Vườn xưa giờ đã như vườn hoang đầy các loài cỏ dại, và trong các loại cỏ dại đó có loài cỏ đã quen thuộc với tuổi thơ của hầu hết mọi người: cây mắc cỡ, còn gọi là cây trinh nữ. Hoa trinh nữ có màu hồng nhạt đẹp đơn sơ và lá cây cỏ mỗi lần đụng đến là tự động xếp lá lại, và Huy Cận đã tả loài cỏ hoa dại này rất hay: “Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu”.

Hình ảnh sợi tơ nhên giăng được cho là “sợi buồn” nghe như nỗi buồn mất em gái bàng bạc khắp nơi…, và “Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây”, như vẫn tưởng là em vẫn đang ngủ đấy thôi, hai tiếng “hầu quạt” thương yêu và trân trọng cho người nghe cảm động về tấm lòng yêu mến của người anh đang trìu mến quạt ru em ngủ.

Tấm tình yêu mến thương của anh, mở ra với quạt này ru em vào giấc ngủ ngon có “trăm con chim mộng về bay đầu giường”. Ru giấc tuổi thơ em vào “mộng bình thường”, bình yên như bao giấc mộng đẹp ở trên đời. Vỗ về em vào giấc gọi là “mộng bình thường” là vì quá yêu mến em nên anh không muốn tin là em đã ngủ yên trong lòng đất. Vẫn tin em vẫn còn bé bỏng ngây thơ như ngày nào, vẫn còn ra vườn hái hoa cỏ dại bày những trò chơi trẻ con của ngày xưa, vẫn ngủ giữa những trưa hè bên quạt hầu của mẹ, của anh chị thân yêu.

Ru em vào mộng bình thường, anh sẵn sàng hầu quạt làn gió mát, và đôi bờ thùy dương sẵn tiếng vi vút như lời ru quê hương đưa em vào giấc ngủ như những ngày còn thơ. “Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ” là câu nguyên tác của bài thơ, đem đến cho người nghe cảm nhận về tình yêu thương ấm áp gia đình, ngoài thâm tình ruột thịt, còn có tình quê hương bàng bạc từ tiếng ru của mấy bờ thùy dương ở khắp nơi đầu núi cuối biển, cho đến khu vườn nhỏ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm ấu thơ. Và lời ru của quê hương này đã ru từng giấc ấu thơ và đi theo ta trong suốt cuộc đời…

Cây dài bóng xế ngẩn ngơ

Hồn em đã chín mấy mùa buồn đau

Tay anh, em hãy tựa đầu

Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…

Âm điệu bỗng vút cao lên như hàng thùy dương ngẩn ngơ giữa bóng xế hoàng hôn. Vút cao lên bàng hoàng giữa nỗi buồn bã trong giây phút cõi mộng đã nhường cho cõi thực: một sự thật không thể chối từ được là em đã không còn ở trên cõi đời này. Và anh ngậm ngùi nỗi thương tâm, hỏi em gái nhỏ thương yêu: “Hồn em đã chín mấy mùa buồn đau?”. Đây cũng chính là nỗi lòng của anh đã chín đau buồn mấy mùa thương tiếc…

Ban đầu, khi bài thơ ra đời ai cũng tưởng bài này tác giả viết cho người tình của mình. Vì ca từ được phổ thơ lục bát của Huy Cận quá hay nên ai cũng đọc và nghe, phớt qua nội dung của từng câu chữ. Sau này, khi biết bài thơ được tác giả làm cho em gái của mình đã qua đời, nhiều người mới chú ý đến câu: “Hồn em đã chín mấy mùa buồn đau” thì mới hiểu rõ hơn hoàn cảnh mà Huy Cận đã sáng tác nên Ngậm ngùi.

Gần 20 năm sau đó, năm 1960, tại Sài Gòn nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc bài thơ bất hủ này để trở thành ca khúc Ngậm ngùi. Ca khúc đã đi vào lòng công chúng yêu nhạc với ca từ da diết và điệu nhạc u buồn. Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong hồi ký: “Tôi yêu thơ Huy Cận từ khi chưa bước vào thế giới âm nhạc… Có thể nói, sau ca dao, Thơ mới (nhất là thơ trong cuốn Lửa Thiêng), ngay từ đầu, đã là chất liệu nuôi dưỡng con người soạn ca khúc là tôi. Trong loại nhạc tình cảm con người của tôi, nếu có thêm hồn vũ trụ, đó là nhờ ở những bài thơ Huy Cận”.

Và nhạc sĩ Phạm Duy đã chắp thêm giai điệu cho nỗi lòng của Huy Cận. Nhạc phẩm Ngậm ngùi mang tất cả những đau buồn và mất mát của thơ Huy Cận, mang tất cả du dương và ngân nga nỗi đau âm ỉ qua giai điệu của Phạm Duy. Sự giao hòa giữa hai thời cuộc, hai tâm  hồn nghệ sĩ đã tạo nên một sáng tác lời thơ êm ả, bùi ngùi, thương tiếc, với nhạc điệu ôm ấp, vỗ về, an ủi.