Truyền thống Việt Nam đã để lại cho hậu thế nhiều di sản văn hóa độc đáo, trong đó có các phong tục truyền thống. Tết Đoan ngọ là một trong các phong tục văn hóa mang ý nghĩa sâu sắc còn gìn giữ cho đến hôm nay. Phong tục tết Đoan ngọ ở Việt Nam thể hiện đầy đủ vai trò, chức năng quan trọng của nó trong đời sống vật chất và tinh thần Việt Nam.

1. Tết Đoan ngọ Việt Nam – những vấn đề chung

Phong tục lễ tết Việt Nam truyền thống gắn liền với quan niệm coi trọng sự tuần hoàn của thời tiết trong năm do Việt Nam nằm trên vành đai khí hậu nhiệt đới nóng, gió mùa. Trên đại thể có thể chia phong tục lễ tết truyền thống thành hai tiểu hệ, gồm (1) các lễ tết gắn với chu kỳ của Trăng, bao gồm Thượng nguyên 15/1, Trung nguyên 15/7, Hạ nguyên 15/10 và Trung thu 15/8; (2) tiểu hệ các lễ tết gắn với các ngày tháng có thành tố lẻ, gồm tết Xuân (1/1), tết Ca hát (3/3)([1]), tết Đoan ngọ (5/5), tết Ngâu (7/7), tết Trùng cửu (9/9). Nhiều trong số các phong tục lễ tết này bắt nguồn từ hoặc có quan hệ mật thiết với văn hóa Trung Hoa, song đã phát triển trên nền tảng của văn hóa canh nông lúa nước Việt Nam, do đó bên cạnh những đặc trưng chung vốn có của văn hóa Á Đông còn thể hiện những đặc trưng mang tính bản sắc của văn hóa Việt Nam. Tết Đoan ngọ có thể xem là một trường hợp tiêu biểu.

Ca dao Việt Nam có câu “Tháng tư đong dậu nấu chè; Ăn tết Đoan ngọ trở về tháng năm”. Người Việt Nam rất coi trọng tết Đoan ngọ, coi đây là cái tết quan trọng thứ hai trong năm, chỉ sau tết Xuân. Tết Đoan ngọ còn gọi là tết Nửa năm, tết Đoan dương, tết Trùng ngũ v.v..

Về từ nguyên, Đoan ngọ có thể hiểu nôm na là “ngày nóng nhất trong năm” hoặc “ngày mở đầu chuỗi ngày nóng nhất trong năm”. Đoan (开) nghĩa là bắt đầu (khai đoan). Ngọ (午) chỉ giờ ngọ, tức khoảng thời khắc nóng nhất trong ngày (từ 11 giờ trưa đến 1 giờ chiều). Theo lịch kiến Dần (nông lịch hiện nay), tháng năm là tháng Ngọ (tháng giêng là tháng Dần). “Ngày 5” âm Hán Việt đọc là “ngũ nhật” (五日trong đó “ngũ” (五) gần với “ngọ” (午), cho nên Đoan ngọ còn gọi là Đoan ngũ (端五). Như vậy, ngày Đoan ngọ là thời điểm ngày dương nhất, tháng dương nhất trong năm (nên gọi tết Đoan dương). Một chi tiết nữa là ngày Đoan ngọ rất gần với tiết Hạ chí trong nhị thập tứ tiết khí nông lịch, tức là ngày bắt đầu chuỗi ngày nóng.

Ngày trước người Việt Nam ở xứ kinh kỳ gọi ngày mồng 1 tháng năm là Đoan nhất, mồng 2 là Đoan nhị, cho đến ngày mồng 5 là Đoan ngũ [Toan Ánh 2005: 353].

Tết Đoan ngọ Việt Nam có cùng một khởi nguồn với các khu vực Bách Việt ở Nam Trung Hoa (vào khoảng vùng hạ lưu Dương Tử trở xuống). Từ ngàn xưa vùng đất này vốn là vùng nông nghiệp lúa nước trù phú do các dân tộc Bách Việt gầy dựng nên. Vùng đất này nằm dọc hai bên chí tuyến bắc, mùa hè oi bức do chịu ảnh hưởng từ khí hậu nóng từ lục địa thổi ra. Nghề lúa nước luôn đòi hỏi người nông dân phải quan sát thời tiết, cố để tránh tối đa những tác hại của nó và tận dụng hữu hiệu những lợi thế mà tự nhiên mang lại. Ở Việt Nam, chính sự phụ thuộc vào tự nhiên theo kiểu “trông trời trông đất trông mây, trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm” để cầu mưa thuận gió hòa, cầu mùa màng bội thu mới là cơ sở để người nông nghiệp quan sát tự nhiên, quan sát thời tiết, từ đó biết được ngày 5 tháng năm âm lịch là ngày dài nhất và là ngày mở đầu chuỗi ngày nóng nhất trong năm, đặt làm “ngày đại kỵ”. Tác giả Trần Ngọc Thêm [2004: 272] cho rằng đây là tết truyền thống vùng Bách Việt do nó gắn liền với hiện tượng thời tiết phương Nam. Dân Việt Nam xưa dùng lịch kiến Tý, tháng bắt đầu là tháng 11, đến đầu tháng 5 đúng là nửa năm. Tết Đoan ngọ thường gần trùng với ngày Hạ chí. Sách Lễ tết Trung Hoa (Chinese Festivals, N.Y. 1952) của W. Eberhard có viết “Đoan ngọ là tết của phương Nam, tết cầu may, tết của sự sống” (Double fifth is a Southern festival, lucky festival or festival of the living” )

Thực chất ngày Đoan ngọ đánh dấu một cột mốc quan trọng của thời tiết là nắng nóng oi bức, dân chúng nhiều người bị bệnh, cho nên đã tổ chức cúng vái để cầu được bình yên, tránh các trắc trở do thời tiết gây ra [Toan Ánh 2005: 353].

Thời cổ đại, người Việt Nam dùng lịch kiến Tý, do vậy tháng mở đầu trong năm là tháng 11 âm lịch. Theo cách tính này, ngày 5 tháng năm rơi vào thời điểm nửa năm, do vậy dân gian Việt Nam rất chuộng tên gọi tết Nửa năm([2]).

Đến đầu Công nguyên, Việt Nam tiếp nhận văn hóa Trung Hoa, đặc biệt là dòng văn hóa quan phương gắn liền với hệ tư tưởng Nho gia và chữ Hán. Sự du nhập này góp phần hình thành diện mạo văn hóa chính thống cổ điển của Việt Nam trong nhiều thời kì lịch sử sau đó. Cũng chính từ đó, tết Đoan ngọ được gắn vào khung lý luận chính thống cùng các ý nghĩa, chức năng mang tính xã hội khác. Đầu tiên là các quan niệm “tưởng nhớ Khuất Nguyên”, “tưởng nhớ Ngũ Tử Tư”, “tưởng nhớ Trần Luận và Nguyễn Thiệu” v.v., song đại đa số người Việt Nam không biết đến các nhân vật này, và do vậy các hoạt động diễn ra trong ngày tết Đoan ngọ không liên quan đến họ.

Có lẽ bắt nguồn từ hiện thực tết Đoan ngọ sản sinh từ trí tuệ của truyền thống nông nghiệp phương Nam, được người Trung Hoa về sau tại nhiều địa phương khác nhau lại gắn vào nhiều điển tích khác nhau từ Ngũ Tử Tư, Việt vương Câu Tiễn, Khuất Nguyên đến Tào Nga, Trần Lâm v.v.([3]). Sự thật rằng tết Đoan ngọ xưa do nhân dân lao động cùng nhau sáng tạo, cùng hưởng thành quả và không ai làm tác giả cụ thể. Tết Đoan ngọ hẳn là gắn với thời tiết, nó phản ánh một cột mốc quan trọng: ngày nóng nhất trong năm. So với người Trung Quốc, người Việt Nam thiên hẳn về lối sống dân gian, tư duy tổng hợp – trừu tượng và truyền thống văn hóa truyền miệng đã giúp gìn giữ phong tục ngày tết này mà không cần thiết gắn liền với các nhân vật lịch sử. Ngược lại, Trung Quốc lớn, dân số đông, dân tộc đa dạng, việc chính thức hóa một phong tục dân gian bằng thao tác gắn chúng với các nhân vật lịch sử có chức năng tích cực, nhất là trong chức năng đại đoàn kết.

2. Phong tục Tết Đoan ngọ Việt Nam nhìn theo chức năng

Đoan ngọ là ngày tết phổ biến ở nhiều nước Đông Á (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam) mang trong mình chức năng quan trọng nhất, từ việc đáp ứng nhu cầu thực tế là được nghỉ ngơi, giải nhiệt, bảo vệ sức khỏe, ăn uống (chức năng thực tế); đến chức năng củng cố đoàn kết dòng tộc, cộng đồng, tạo dựng ý thức dân tộc (chức năng tâm lý xã hội); rồi chức năng gắn kết các thế hệ xuyên không gian và thời gian (chức năng tâm linh). Phong tục tết Đoan ngọ ở Việt Nam thể hiện phong phú và sâu sắc ở cả ba chức năng ấy.

a. Chức năng đáp ứng nhu cầu thực tế

Việt Nam là xứ nóng, và do vậy văn hóa truyền thống Việt Nam thuộc tuýp văn hóa chống nóng. Việt Nam là nền văn hóa sông nước, và do vậy người Việt Nam tận dụng nước và môi trường nước để sinh tồn. Việc kết hợp hai thứ ấy đã tạo ra truyền thống văn hóa canh nông lúa nước thuần túy ở Việt Nam.

Văn hóa chống nóng ở Việt Nam diễn ra liên tục trong năm. Hơn ai hết, người Việt Nam cảm thụ được cái nóng và hiểu tác động hai chiều của sức nóng. Qua hàng ngàn năm sinh sống, người Việt Nam đã quen với cái nóng, cũng vì thế họ rất linh hoạt trong cách thức giải trừ tác hại của nhiệt. Để chống nóng thì cần đến nước. Hỏa và Thủy là hai cực điển hình nhất trong triết lý Ngũ hành ở Việt Nam. Nước hiện diện trong mọi phương diện của đời sống người Việt, từ truyền thuyết-thần thoại (Sơn Tinh-Thủy Tinh, Chử Đồng Tử, Lạc Long Quân-Âu Cơ..), ngôn ngữ, văn học đến tín ngưỡng (thờ Bà Thủy), kinh tế (lúa nước, chợ nổi, dân thương hồ v.v.). Nghỉ ngơi vào ngày tết Đoan ngọ, thực hiện nhiều phong tục chống nóng và tận dụng nước là một thể hiện sống động nhất.

Tại Trung Quốc, tiêu độc do cái nóng tạo ra và đua thuyền rồng trên sông là hai phong cách chính trong ngày [W. Eberhard 1968], trong khi tại Việt Nam, các hoạt động chính tập trung ở khía cạnh tiêu độc trừ phong và các hoạt động xã hội.

Ý nghĩa lớn nhất và sâu sắc nhất của phong tục tết Đoan ngọ ở Việt Nam là Tết giết sâu bọ. Theo quan niệm xưa, trong bộ phận tiêu hóa thường có sâu bọ (giun, sán ký sinh). Loài sâu bọ này nếu không trừ đi sẽ sinh sản ngày một nhiều hơn và gây tai hại cho người, nhưng giết sâu bọ không phải là chuyện dễ dàng và không phải vào bất cứ thời gian nào. Chỉ đến ngày mồng 5 tháng năm lũ sâu bọ mới ngoi lên, đây là cơ hội quan trọng để giết bỏ chúng.

Người Việt Nam dùng thức ăn để giết sâu bọ, nhất là rượu nếp (giết giun sán) và hoa quả (tăng cường vitamin). Sáng sớm ngày mồng 5 tháng năm, ngay sau thức dậy phải diệt sâu bọ. Mọi người sáng ngủ dậy không được đặt chân xuống đất, phải súc miệng 3 lần cho sạch sâu bọ, tiếp đó ăn một quả trứng vịt luộc, rồi bước chân ra khỏi giường, ăn một bát rượu nếp cho sâu bọ say, sau đó ăn trái cây cho sâu bọ chết. Các gia đình truyền thống thường phải ăn ít nhất một bát rượu nếp, một bát thạch quả, rồi đến trái cây tươi như mận, muỗm, sấu, đào, roi.. Có nơi uống một ly rượu có pha một ít tam thần đơn để tiêu độc. Trẻ con được bôi một lớp bột thần sa, hồng hoàng hay chu sa vào hai bên thái dương hoặc ở bụng. Một số nơi còn cho trẻ con uống một ít thần sa. Cho đến hôm nay, người Việt Nam dù ở nông thôn hay thành thị đều vẫn ăn cơm rượu, ăn trái cây và dành nhiều thời gian nghỉ ngơi trong ngày.

Trong văn hóa Việt Nam, chính tết Đoan ngọ mới đích thực là tết Hàn thực vì thức ăn (cơm rượu, trái cây) tuyệt đại đa số là thức ăn nguội, mang tính hàn để chống nóng. Trong khi đó ngày 3 tháng ba ở Việt Nam vốn dĩ là tết Ca hát (tương tự như phong tục Tết lồng tồng của các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam và Choang, Đồng ở Quảng Tây Trung Quốc), sau dần biến thành tết ăn bánh trôi – bánh chay chứ thực sự không không phải là tết ăn thức ăn nguội (Hàn thực) [Nguyễn Ngọc Thơ 2008].

Thứ hai là tục đi hái thuốc ngày 5 tháng năm, được cho là bắt nguồn từ phương Nam (Nam Trung Hoa, Đông Nam Á). Mỗi loại thảo mộc đều có dược tính riêng, và giờ Ngọ ngày mồng 5 tháng năm được tin là thời khắc dược tính đạt mức cao nhất. Các loại thảo mộc được hái nhiều nhất trong ngày này là trà, ngãi cứu, đinh lăng, rau ngò, lá mua, ích mẫu, tử tô, kinh giới, lá bưởi, lá cam, tỏi, gừng, trầu không, bồ công anh, sen, vối, lạc tiên v.v.. Các loại lá được mang phơi khô, mỗi khi người nhà bị bệnh người ta mang đi sắc thuốc mà dùng. Nhiều làng ở ven rừng, cư dân tổ chức đi hái lá rất đông vui, cứ như một ngày hội lớn.

Thứ ba là treo ngai cứu bảo vệ sức khỏe. Cây ngải cứu có dược tính khu phong giải độc, người bị nhức đầu có thể lấy lá ngãi cứu đắp hai bên thái dương sẽ khỏi bệnh. Ngày Đoan ngọ, người ta lấy lá ngải cứu treo trước cửa nhà tránh đau ốm và để trừ tà. Dân gian canh từng năm thuộc địa chi gì thì bó ngải cứu thành hình dáng của con vật cầm tinh năm ấy, chẳng hạn năm Tý thắt hình con chuột, năm Sửu thắt hình con trâu v.v.. Người miền Nam thay ngải cứu bằng nhánh xương rồng và vài loại thảo mộc khác. Xét ở khía cạnh khoa học, ngày 5 tháng năm người ta ăn nhiều rượu nếp và trái cây có thể sẽ cảm thấy khó chịu, mùi lá ngải cứu treo trên cửa nhà sẽ giúp cảm thấy dễ chịu hơn, đồng thời còn giúp làm giảm bớt sức nóng của ngày Đoan dương. Bó ngải cứu được treo rất lâu sau ngày Đoan ngọ vì công dụng thực tế ấy của nó.

Thứ tư là tục Tắm nước lá mùi, nhiều nhất là ở các làng quê nông thôn. Người ta đun các loại lá mùi, lá tía tô, kinh giới, lá sả, lá tre vào chung một nồi, rồi mọi người già trẻ thay nhau múc tắm. Mùa nóng lại tắm nước nóng có lá thơm, mồ hôi toát ra, cảm giác khoan khoái dễ chịu, thơm tho làm cho con người phấn chấn và có lẽ cũng trị được cảm mạo, bởi nước lá mùi là vị thuốc nam. Ngày nay, các vùng nông thôn còn giữ tục này, các đô thị thì ít phổ biến hơn.

Cùng với tục tắm nước là mùi là thói quen tắm sông giải nhiệt. Nhiều địa phương ở ven sông, ven biển thay vì tắm nước lá mùi thì đúng giờ ngọ họ đi tắm sông, tắm biển gọi là Tắm mồng 5. Ở vùng đất hai bên sông Cửu Long, nhất là khu vực sông Tiền, dân cư (phổ biến là nam nữ thanh niên chưa lập gia đình) thường có tục đi chơi ở những cù lao trên sông. Đến hẹn lại lên, các bãi tắm cạn đầu các cù lao sông Tiền, sông Hậu lại đón hàng ngàn cư dân địa phương và các vùng xa xôi đổ về tắm làm náo nhiệt một khúc sông. Không ít trong số họ tin rằng nước sông Mê-kông trong ngày Đoan dương trở nên “linh thiêng”, có thể giúp “tẩy rửa bệnh tật”, song cái chính vẫn là để được vui chơi, gặp gỡ bạn bè và giải nhiệt. Mãi đến cuối thế kỷ XX, phong tục này còn rất thịnh đạt, có nơi có đến hàng chục ngàn người cùng đi tắm, như tại cù lao Tân Phong (Cai Lậy, Tiền Giang) chẳng hạn [tư liệu điền dã].

Ngoài ra, tùy từng địa phương có thể có thêm các tập tục chống nóng và tận dụng nước để bảo vệ sức khỏe. Chẳng hạn vùng Đồ Sơn (Hải Phòng) có tục đua thuyền rồng – một phong tục rất phổ biến ở Nam Trung Hoa và Đông Nam Á.

b. Chức năng tâm lý – xã hội (chức năng giáo dục cộng đồng)

Một số nhà xã hội học người Pháp cho rằng con người luôn sắp xếp tốt hai nhịp làm việc và nghỉ ngơi trong đời. Cùng với tết Xuân, Tết Đoan ngọ là một dịp nghỉ ngơi của nông dân Việt Nam sau khi thu hoạch xong các vụ mùa xuân-hè([4]). Dân gian tin rằng làm việc đồng áng vào ngày này sẽ tổn hại sức khỏe nhiều hơn lúc bình thường. Xét theo chức năng tâm lý xã hội, các hoạt động tập trung vào hai nhóm chính, gồm cúng bái tổ tiên – ăn uống và đi sêu tết nhà bố mẹ vợ tương lai. Cả hai hoạt động này thể hiện sống động lối sống trọng quan hệ và trọng tình cảm của người Việt Nam.

Theo quy luật âm dương, dương thịnh thì “bình dương kiện âm”. Tết Đoan Ngọ giữa mùa hè nóng bức (dương tính), các tục lệ dân gian đặt trong tâm ở tố chất tình cảm gia đình – xã hội (âm tính). Ở khía cạnh này, các hoạt động tiêu biểu nhất có thể kể đến là tục cúng bái tổ tiên, đi sêu nhà nhạc gia, tết thầy giáo, tết thầy lang, tết thăm viếng lẫn nhau.

Đầu tiên là tục Cúng bái trong tết Đoan ngọ. Các gia đình chuẩn bị mâm thức ăn nguội (bánh chưng, trái cây, thạch quả v.v.) trước để cúng bái tổ tiên sau ăn để bảo vệ sức khỏe. Đối tược đượng cúng bái là vong linh tổ tiên, các vong hồn cô độc và Thổ công. Miền Bắc Việt Nam thường phải có quả dưa hấu to bên bàn cúng lễ (vì đang mùa dưa hấu). Các làng xã xưa tổ chức cúng lễ tại các đình, đền, miếu mạo. Các thôn xóm nhỏ hơn tổ chức cúng ở các miếu tự. Sau cúng lễ, người Việt Nam tổ chức ăn uống chứ không mang vứt xuống sông như ở phong tục Trung Quốc [Toan Ánh 2005: 355]. Dân cư miền Trung khu vực Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt (tính hàn, vị ngọt mát)([5]), còn người Đà Nẵng đến Quảng Ngãi cho trẻ con vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ [tư liệu đồng nghiệp cung cấp 2011]. Cư dân nông thôn miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc trước cúng tổ tiên, sau ăn uống quây quần. Cộng đồng người Hoa thì làm hoặc mua bánh ú để cúng thần thánh, tổ tiên. Các gia đình hành nghề Đông y còn tổ chức cúng Thánh sư.

Nếu ở gia đình thờ cúng tổ tiên, làng xã cúng thần Thành hoàng, thần đất thì ở cấp quốc gia, người Việt Nam cúng giỗ tổ mẫu Âu Cơ. Ca dao có câu:

“Tháng năm ngày tết Đoan dương
Là ngày giỗ mẹ Việt Thường Văn Lang”.

Ngày giỗ Quốc mẫu Âu Cơ được chọn vào ngày 5 tháng 5. Dân cư từ nhiều vùng khác nhau trong cả nước hành hương về đền Âu Cơ ở Việt Trì (Phú Thọ) để tế lễ, thể hiện lòng biết ơn tổ mẫu([6]). Tập tục đóng vai trò quan trong không kém là tục đi sêu. Những chàng trai đã hỏi vợ nhưng chưa cưới phải đi sêu nhà bố mẹ vợ trong ngày này. Lễ vật đi sêu thường là gạo chiêm mới, đậu xanh, cặp ngỗng, cặp chim ngói, vài quả dưa hấu.. hết thảy đều là sản phẩm canh nông đang vào mùa. Tình cảm là chính, do vậy “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Gia đình nhà gái nhận lễ, song lúc nào cũng hoàn lại một phần để thể hiện ý nghĩa thông gia hữu hảo. Những chàng rể đã cưới vợ rồi thì hết lệ sêu, song thông thường người ta vẫn tổ chức về nhà vợ viếng ông bà trong ngày [Toan Ánh 2005: 362].

Tắm sông mồng 5 tháng năm

Đi sêu [ nguồn: internet]

Thứ ba là Tết thầy cô. Trong những ngôi làng truyền thống Việt Nam xưa các ông đồ dạy học thường không lấy tiền công, chính vì thế học trò thư sinh thường đi tạ ơn thầy cô vào các ngày tết Xuân, tết Đoan ngọ hay tết Trùng cửu. Lễ thường là chút đường bánh, hoa quả tùy vào tấm lòng của gia đình học trò. Học trò cũ làm nên danh vọng cũng không quên ơn thầy cô cũ mà về viếng vào dịp này.

Cùng với tết thầy cô là Tết ông lang. Các bệnh nhân đã chữa khỏi cũng không quên ơn các thầy lang nên sắm lễ đi viếng các thầy lang.

Mở rộng hơn nữa là tục Thăm viếng ân nhân. Những người chịu ơn người khác, kẻ dưới trong làng có tục đi quà biếu người ban ân hay những ai đã giúp mình để tỏ lòng biết ơn.

Tết Đoan ngọ ngày nay, qua mọi biến đổi của thời cuộc vẫn tồn tại trong nhân dân với ý nghĩa thiết thực và thiêng liêng của nó.  Dẫu qua bao biến đổi về thời cuộc, song tết Đoan Ngọ vẫn tồn tại trong lòng người dân đất Việt như một phong tục đẹp, với ý nghĩa thiêng liêng về đạo lý làm người.

c. Tết Đoan ngọ nhìn từ chức năng tâm linh

Ngoài hai chức năng trên, phong tục tết Đoan ngọ ở Việt Nam còn thể hiện chức năng tâm linh, một chức năng phái sinh được cho là sự nối dài của hai chức năng trước. Tục cúng tế tổ tiên (đã bàn) ít nhiều đề cập đến sự giao hòa các thế hệ xuyên không gian và thời gian dù ý nghĩa của nó nằm ở đạo Hiếu. Không phải chỉ ở tết Xuân, tết Đoan ngọ, ngày giỗ người Việt mới cúng tổ tiên, việc thắp hương cúng tết được thực hiện mỗi ngày. Theo niềm tin dân gian, do ngày mồng 5 tháng năm thời tiết nóng, dân gian nghỉ ngơi quây quần, do đó người ta tin rằng tổ tiên cùng quay về quây quần cùng con cháu.

Song song với phong tục hướng đến tổ tiên và hoạt động trừ ma đuổi quỷ. Theo dân gian, trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương nhất nên các tập tục thường hướng vào chúng. Trẻ con còn được đeo túi bùa ngũ sắc, dân gian gọi là bùa tua bùa túi được tết bằng vải và chỉ 5 màu (đen, đỏ, xanh, trắng, vàng – ngũ hành) thành hình ảnh của các loại trái cây có ở địa phương. Một túi bùa thường có: (1) một cục hồng hoàng có tính chất kỵ rắn rết, đuổi quỷ; (2) một túi hạt mùi hình vuông kỵ gió; (3) một quả ớt màu (xanh, đỏ, vàng); (4) một quả na; (5) một quả hồng. Trong số các thứ ây, chỉ ngũ sắc để trị tà ma, hồng hoàng trị các hiểm họa từ các loài động vật có nọc độc([7]), trái cây ngụ ý diệt trừ sâu bọ.

Song song đó là tục Nhuộm móng tay – móng chân trị tà ma. Ở các vùng nông thôn, phụ nữ và trẻ con có tục nhuộm màu móng tay móng chân. Màu được lấy từ một loại lá cây ở địa phương, đem giã nhỏ rồi bọc lên đầu ngón tay từ tối hôm trước. Khi nhuộm móng tay người ta chừa lại ngón trỏ vì đây là thần chỉ. Hoạt động này được cho là giúp trừ tà ma, sâu bệnh.

Gắn với chức năng tâm linh, ở nhà nông có tục Khảo cây lấy quả. Nhiều cây trồng nhiều năm không quả, người ta cho đó là các loại cây bướng bỉnh. Người Việt Nam tin mỗi cây có một linh hồn, do vậy cần khảo cây cho ra quả. Ngày Đoan ngọ, một người leo lên cây, một người đứng dưới gốc. Người dưới gốc vọng lên rằng tại sao cây không ra quả, nếu mùa sau vẫn không ra quả sẽ chặt cây đi. Người trên cây đóng vai của cây vái lạy đừng chặt và hứa ra quả. Người dưới cây hỏi sẽ ra mấy quả, người trên cây trả lời số quả tùy vào sức vóc của cây. Đây là một hoạt động mang chiều hướng tâm linh.

Nhiều gia đình mang áo lụa mới đến chùa, đình xin ấn son rồi mang về nhà cho trẻ con mặc trong ngày với ngụ ý dùng sức mạnh thần thánh xua đuổi tà ma hoặc tránh các tác động có hại của tự nhiên (sức nóng, rắn tấn công v.v.).

Trong văn hóa tín ngưỡng, ngày mồng 5 tháng năm là lễ vía bà Linh Sơn thánh Mẫu trên núi Bà Đen ở Nam Bộ (Tây Ninh). Linh Sơn Thánh Mẫu vốn là thần Vishnu trong phong tục Khmer, sau được người Việt tiếp nhận và chuyển hóa thành Linh Sơn Thánh Mẫu. Tương truyền bà hóa tục vào đúng ngọ ngày Đoan dương, do vậy ngày này là đại lễ vía bà. Tuy nhiên, chúng tôi chưa tìm thấy các mối liên hệ hữu cơ giữa lễ vía bà với các tập tục nói trên trong tết Đoan ngọ.

3. Đặc trưng văn hóa Việt Nam qua phong tục tết Đoan ngọ

a. Tính cách văn hóa Việt Nam thể hiện qua phong tục tết Đoan ngọ

Để hiểu thêm những đóng góp của phong tục tết Đoan ngọ trong văn hóa Việt Nam, chúng tôi bắt đầu từ việc xác định loại hình văn hóa và các đặc trưng tính cách văn hóa cố hữu của văn hóa Việt Nam.

Nghiên cứu văn hóa học thấy rằng văn hóa Việt Nam thuộc kiểu văn hóa nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á truyền thống:

Loại hình này của văn hóa Việt Nam là sản phẩm tất yếu của sự tổng hòa ba yếu tố (1) Môi trường sống thuận tiện với khí hậu nóng ấm và địa hình sông nước, (2) Chất tĩnh của dân hái lượm và nông nghiệp Nam Á – tổ tiên người Việt hiện đại; và (3) Loại hình kinh tế chủ yếu là nghề nông nghiệp lúa nước.

Bàn về tính cách văn hóa truyền thống Việt Nam, tác giả Trần Ngọc Thêm [2007] đã rút ra 5 đặc trưng lớn, gồm tính ưa hài hòa, thiên về âm tính, tính cộng đồng, tính tổng hợp  tính linh hoạt [Trần Ngọc Thêm 2007]

Các tập tục chống nóng (xa hơn là chống tác động có hại của tự nhiên, trừ tà ma), tận dụng nước (tắm nước là mùi, tắm sông) trong ngày tết Đoan ngọ là một thể hiện vô cùng sống động và có ý nghĩa của tư duy hài hòa với tự nhiên. Trên thực tế, người Việt Nam nói riêng, người phương Đông nói chung, chưa đủ sức để có thể cạnh tranh ngang bằng với tự nhiên, rồi từ đó vươn lên chế ngự tự nhiên. Chính vì thế mà việc điều phối hoạt động sống cho phù hợp với chu kỳ biến động của tự nhiên là kho tàng tri thức quý báu của dân gian được truyền tụng. Trong các phương diện văn hóa, có lẽ phong tục ngày tết Đoan ngọ, thuật phong thủy trong lựa chọn không gian cư trú cùng thói quen điều chỉnh tính chất nhiệt, hàn của món ăn theo mùa là các thể hiện sâu sắc nhất.

Bản chất văn hóa Việt Nam truyền thống là thiên về nữ tính (âm tính), được thể hiện phổ biến qua vai trò to lớn của nữ giới trong xã hội (tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ biểu tượng phồn sinh..), hiện tượng tình cảm hóa các nguyên lý Nho gia, xu hướng phát huy tối đa vai trò của nước trong văn hóa. Trong ngày tết Đoan ngọ, việc lựa chọn cách thức sinh hoạt (nghỉ ngơi, tắm sông v.v.), cách thức bảo vệ sức khỏe (treo ngãi cứu, đeo hồng hoàng v.v.), lựa chọn thức ăn (cơm rượu, trái cây, thịt ngỗng, thịt vịt – tất cả đều mang tính hàn) là những hoạt động nhấn mạnh hay điển hình hóa của các hoạt động sống vốn đã thiên về âm tính trong môi trường Việt Nam quanh năm hầu như chỉ có hai mùa mưa nắng, trong khi dấu ấn mùa đông không đậm nét.

Tính cộng đồng trong văn hóa dân gian có thể được tìm thấy ở mọi nơi trên thế giới, song có thể nó là nhu cầu thường trực và tối cần thiết trong văn hóa nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á vốn mang tính thời vụ và mối nguy hại từ tự nhiên (chuột, sâu bọ) luôn rình rập đe dọa tính mạng con người (nạn đói). Tính cộng đồng trong văn hóa Việt Nam vượt qua tính đoàn kết gia dòng tộc vốn mang tính chất tôn ty (trục tung), mà nó thể hiện ở mối quan hệ gắn bó bình đẳng giữa những người nông nghiệp trong các đơn vị cấu thành nước Việt Nam là làng xã khép kín([8]). Tính cộng đồng ấy quy tụ thành thói quen sinh hoạt cộng đồng, dịp thể hiện nhiều nhất là các phong tục lễ tết. Trong tết Đoan ngọ, việc tụ họp cúng bái ở đền, miếu (cúng Thần hoàng, Thổ công), tục đi sêu nhà nhạc gia, tục thăm viếng thầy giáo, thầy lang và ân nhân, tục nam nữ đi chơi và tăm sông ngày Đoan ngọ v.v. đều có thể hiểu là các thể hiện của xu hướng thiết lập hoặc củng cố các mối quan hệ xã hội theo chiều ngang (trục hoành).

Người Việt Nam, so với nhiều dân tộc khác ở Đông Nam Á, mang nặng tư duy tổng hợp. Trong văn hóa, nó thể hiện thành tính tổng hợp. Ở tiểu văn hóa tết Đoan ngọ, người Việt Nam cố tìm kiếm tất cả các phương thức khác nhau đôi khi không hề có mối quan hệ giữa chúng để đạt được mục đích chống nóng. Ở Trung Quốc, theo W. Eberhard [1968], hai hướng sinh hoạt phổ biến nhất là đua thuyền và trừ sâu bệnh, thì ở Việt Nam thiên hẳn về khuynh hướng diệt trừ sâu bệnh (ứng xử với môi trường tự nhiên), trên đó gắn thêm nhiều hoạt động ứng xử với môi trường xã hội (cúng tổ tiên, giỗ tổ mẫu, đi sêu, thăm viếng thầy giáo, thăm thầy lang, tạ ơn ân nhân v.v.). Đây là một mô thức điển hình của tư duy Việt Nam: tính tổng hợp. Nếu như ở Trung Quốc, tết Đoan ngọ chủ yếu là mặt ứng xử với môi trường tự nhiên (chống nóng), thì ở Việt Nam cả hai mặt ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội có vai trò quan trọng như nhau. Quan sát môi sinh có thể cho thấy Việt Nam quanh năm nắng nóng, người Việt sớm đã quen cách ứng xử với cái nóng (tận dụng môi trường nước, dùng sản phẩm lương thực từ thực vật, thủy-hải sản v.v.), do vậy người Việt Nam đã gắn thêm các ý nghĩa xã hội để lễ tết này mang thêm các ý nghĩa biểu tượng trừu tượng hơn. Ở tết Đoan ngọ Việt Nam, người ta nhìn thấy cả các giá trị kết nối tự nhiên và xã hội, kết nối siêu không gian và siêu thời gian.

Cuối cùng là tính linh hoạt, đặc trưng có ở hầu hết các nền văn hóa Á Đông. Tại khu vực Đông Bắc Á, xã hội mang tính trục tung (trọng tôn ti-trật tự trên dưới, cao-thấp; trọng văn hóa quan phương; trọng vai trò nam giới v.v.) thì nét linh hoạt trong tính cách văn hóa phần nào cân bằng bằng thói quen tư duy rạch ròi, quy củ. Tại Trung Quốc, “quốc có quốc pháp, gia có gia quy”, ở Việt Nam chỉ có hương ước do dân gian kết thành và quốc luật bắt nguồn từ hương ước (xã hội trục hoành). Trong tết Đoan ngọ, tính cách linh hoạt được thể hiện ở chỗ cho phép các hoạt động vượt qua khuôn khổ của một phong tục chống nóng thông thường mà chuyển hóa các hoạt động ấy thành các thể hiện cụ thể của các hoạt động giáo dục đạo đức xã hội và hoạt động tâm linh([9]). Tính linh hoạt này có mối liên hệ mật thiết với tính tổng hợp nói trên, cả hai hợp thành tính chất đa dạng – phức tạp của phong tục tết Đoan ngọ ở Việt Nam.

b. Tính cách văn hóa Việt Nam nhìn theo chức năng của phong tục tết Đoan ngọ

Nhìn theo các chức năng, phong tục tết Đoan ngọ Việt Nam thiên về các chức năng dân gian vốn có, tức ít bị chi phối mạnh mẽ của văn hóa quan phương cùng các ý nghĩa xã hội mang tính quy củ. Ở một khía cạnh nào đó, phong tục ấy mang tính tự phát, gắn liền với tính chất xã hội trục hoành ở Việt Nam.

Chất tự phát và phong cách thuần dân gian trong chức năng đáp ứng nhu cầu thực tế chống nóng ở Việt Nam thẩm thấu qua việc tận dụng các lợi thế sẵn có trong tự nhiên để chống tác hại của tự nhiên. Kinh nghiệm ấy được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử mà chưa hề có một kinh sách nào quy chuẩn hóa. Chất tự phác còn thể hiện ở đặc trưng đa dạng khu biệt tính vùng miền, do Việt Nam trải dài 2000 km từ bắc chí nam, trải qua nhiều loại hình khí hậu ẩm ướt và khô hạn khác nhau của đới nhiệt đới xích đạo. Cho đến hôm nay, hoạt động lễ tết này vẫn hoàn toàn mang chất tự phát dân gian toàn dân mà không hề có một hoạt động nào mang tính quan phương được tổ chức.

Ở chức năng tâm lý – xã hội, đạo hiếu và lối sống trọng tình là hai ý nghĩa được chú trọng. Văn hóa Việt Nam tuy lỏng lẻo ở mối quan hệ dòng tộc, song đạo hiếu lại phát triển mạnh mẽ ở quy mô gia đình hạt nhân như một quy luật bù trừ. Công việc xã hội đầu tiên trong ngày phải là cúng bái tổ tiên. Việc đi sêu của các chàng rể phần nào phản ánh dấu vết cổ xưa của một xã hội dành cho nữ giới một chỗ đứng nhất định. Tương tự, tinh thần “uống nước nhớ nguồn” được gìn giữ và lưu truyền qua các hoạt động thăm viếng nhau sau một mùa lúa xuân-hè vất vả, khó nhọc.

Ở chức năng tâm linh, có lẽ phong tục tết Đoan ngọ ở Việt Nam chia sẻ nhiều nét tương đồng với các dân tộc Nam Trung Hoa([10]), Triều Tiên [xem W. Eberhard 1968: 156]. Yếu tố ước vọng sức khỏe, ước vọng phồn sinh, cầu mưa, cầu thịnh vượng được dân gian gửi gắm vào các hoạt động kết nối con người với các thế lực siêu nhiên, đầu tiên đó là cầu mong thần thánh, tổ tiên bảo hộ, sau là tận dụng các phương thức huyền bí khác nhau để trừ ma đuổi quỷ.

Kết luận

Phong tục tết Đoan ngọ ở Việt Nam do dân gian nông nghiệp sản sinh ra qua quá trình sống và ứng xử với môi trường tự nhiên. Tết Đoan ngọ ở Việt Nam là một phong tục “bình dương kiện âm”, “dĩ hàn khứ nhiệt”, “dùng thủy trị hỏa” mang tính chất tự phát gắn liền với văn hóa dân gian. Theo thời gian, phong tục này gắn thêm các ý nghĩa giáo dục đạo đức xã hội và quan niệm tâm linh, biến tết Đoan ngọ thành một phong tục văn hóa thể hiện sâu sắc các đặc trưng cơ bản của tính cách văn hóa Việt Nam: tính hài hòa với tự nhiên, thiên về âm tính, tính cộng đồng, tính tổng hợp và tính linh hoạt.

Trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa với Trung Hoa và khu vực, phong tục tết Đoan ngọ trong văn hóa Việt Nam được bổ sung nhiều yếu tố mang tính lý luận quan phương hơn, cùng hòa vào dòng chảy chung của văn hóa Đông Á, cùng chia sẻ nhiều yếu tố tương đồng cơ bản của một lễ tết bắt nguồn từ biến động của thời tiết. Song, phong tục lễ tết Đoan ngọ ở Việt Nam phần nào thiên về chất dân gian tự phát, phù hợp với kiểu xã hội trục hoành (horizontal culture) của văn hóa truyền thống nước nhà.

Reference

  1. Đào Duy Anh 1955: Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn hóa Thông tin tái bản 2003.
  2. Toan Ánh 2005: Tín ngưỡng Việt Nam(quyển hạ), NXB Trẻ.
  3. Nguyễn Châu: “Tết Đoan ngọ: Mồng 5 tháng năm âm lịch”, http://ttvnol.com/f_533/752941
  4. Mai Viên Đoàn Triển 2008: An Nam phong tục sách, NXB Hà Nội.
  5. Nguyễn Ngọc Thơ 2008: “Lại bàn về nguồn gốc tết Đoan ngọ”, vanhoahoc.edu.vn
  6. Nguyễn Ngọc Thơ 2008: “Từ tết Lồng tồng (Tam nguyệt tam) của người Choang ở Trung Quốc bàn về tết 3 tháng ba ở Việt Nam”. Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, 2008, Hà Nội.
  7. Phan Kế Bính 1915: Việt Nam phong tục, NXB Văn học tái bản năm 2005
  8. Sơn Nam 2009: Nói về miền Nam, Cá tính miền Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam, NXB Trẻ.
  9. Trần Ngọc Thêm 2004: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tp. Hồ Chí Minh
  10. Vũ Ngọc Khánh 2008: Lễ hội Việt Nam, NXB Thanh Niên.
  11. cinet.vn: “Tết Đoan ngọ – nét sinh hoạt văn hóa dân gian phương Đông”, http://www.cinet.vn/upLoadFile/HTML/11_36_17_2852009/tetdoanngo.htm
  12. Brandly Womack 2006: China and Vietnam: the politics of asymmetry, Cambridge University Press
  13. Leon E. Stever 1974: The cultural Ecology of Chinese Civilization, New York: Pica Press.
  14. Lung Ki-Sun 2002: The Chinese national characters from nationhood to individuality, An East Gate Book.
  15. Wolfram Eberhar 1968: The local culture of South and East China, translated from German by Alide Eberhard, Leiden: E.J. Brill.
  16. Cao Bính Trung 2004: “Khởi nguồn và ý nghĩa tết Đoan ngọ”, Nghiên cứu dân tộc, kỳ 5: 23-26 (高丙中2004:《端午节的起源与意义》,民族研究,第5期:23-26).
  17. Cố Vĩ Liệt 2005: Thông luận văn hóa Trung Quốc, NXB Đại học Sư phạm Hoa Đông (顾伟列2005:《中国文化通论》,华东师范大学出版社).
  18. Hà Bồi Kim cb. 1991: Văn hóa thuyền rồng Trung Quốc, NXB Tam Hoàn (何培金主编1991:《中国龙舟文化》,三环出版社)
  19. Phùng Minh Dương 2006: Việt ca: Lĩnh Nam bản thổ ca nhạc văn hóa luận, NXB Nhân dân Quảng Đông (冯明洋2006:《越歌:岭南本土歌乐文化论》,广东人民出版社).
  20. Trần Dũng Tân 2005: Bài ca thuyền rồng, NXB Nhân dân Quảng Đông (陈勇新2005:《龙舟歌》,广东人民出版社).
  21. Văn Sùng Nhất 1990: Trung Quốc cổ văn hóa, Công ty Thư đồ Đông Đại phát hành (文崇一1990:《中国古文化》,东大图书公司发行).

Chú thích:

([1]) Sau chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa chuyển thành tết Hàn thực.

([2]) Cần chú ý thêm rằng, ngày tết Đoan ngọ là một trong chuỗi các ngày tết truyền thống ứng với ngày tháng số lẻ (Tết Nguyên đán: 1 tháng giêng; Tết xuống đồng: 3 tháng ba (còn gọi là tết Hàn thực); tết Đoan ngọ: 5 tháng năm, Tết Ngâu: 7 tháng bảy; Tết Trùng cửu: 9 tháng chín) và có liên quan đến tư duy số lẻ phương Nam (như trong cách nói “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”).

([3]) người Trung Hoa gắn nguồn gốc tết Đoan ngọ với nhiều nhân vật lịch sử như Câu Tiễn người nước Việt, Ngũ Tử Tư người nước Sở về đầu quân nước Ngô, Khuất Nguyên người nước Sở, Tào Nga người quê gốc Dương Tử, Trần Lâm người vùng Quảng Tây v.v.. Còn quá sớm để nói Sở – Việt đồng nguyên, song Cảnh Sở vẫn là cư dân sông nước phương Nam. Tương tự như vậy, tết Đoan ngọ ở Trung Hoa được tổ chức đặc biệt long trọng ở vùng sông nước Dương Tử và Hoa Nam, ứng với vùng văn hóa Bách Việt cổ.

([4]) Dân gian không nghỉ ngơi vào tết Trung thu, mà đây là tết dành cho trẻ con

([5])Có thể thấy tục ăn thịt vịt, thịt ngỗng hay chim ngói ở Việt Nam khá tương tương đồng với tục ăn canh thịt cóc hay thịt chim cú (diều hâu) tại một số vùng ở Nam Trung Hoa [W. Eberhard 1968: 153-155].

([6]) Lễ giỗ quốc tổ Hùng vương vào ngày 10 tháng 3, cũng ở khu vực Đền Hùng (Việt Trì, Phú Thọ).

([7]) Gắn liền với tục đeo bùa tua bùa túi là hai câu chuyện dân gian:
(1) Len lén như rắn mồng 5: ngày mồng 5 ít khi gặp rắn. Ngày ấy loài bò sát này len lén đi trốn. Ngày ấy trẻ con đeo túi hồng hoàng (thư hoàng, realgar, orpiment) kỵ rắn nên chúng thường ẩn trốn.
(2) Sự tích con rắn mối: Thằn lằn cũng sợ hồng hoàng không kém. Sự tích kể rằng xưa có một người giàu hào phóng, cha mẹ mất, ăn tiêu thái quá đến tán gia bại sản, phải vay nợ nhiều người nhưng không thể trả. Chủ nợ đòi, anh hẹn lần hẹn lựa, một lần nọ anh ta hẹn ngày mồng 5 tháng năm sẽ trả nợ. Ngày hẹn tới, chủ nợ đến, anh ta đành phải trốn, rúc vào bụi cây trốn, chủ nợ tìm, anh ta sợ quá chết luôn ở đó, hóa thân thành con thằn lằn. Ngày thường thằn lằn xuất hiện khắp nơi, song chúng thường lẩn trốn vào ngày 5 tháng năm. Dân gian có câu “trốn như thằn lằn mồng năm”.

([8]) Văn hóa gia tộc ở Việt Nam không mạnh mẽ bằng ở Trung Quốc, ngược lại sự gắn kết cộng đồng bắt nguồn từ nhu cầu liên kết để đối phó với những tác động có hại từ môi trường tự nhiên và xã hội của những người sống chung trong làng, bất kể thân sơ.

([9]) Trong văn hóa Trung Hoa, tết Đoan ngọ cũng có hoạt động tế bái các nhân vật lịch sử gắn với nước (Ngũ Tử Tư, Tào Nga, Khuất Nguyên, Lưu Thần-Nguyễn Triệu..), tế bái thủy thần v.v., thể hiện sự sóng đôi của hai chức năng giáo dục ý thức cộng đồng dân tộc và chức năng tâm linh.

([10]) Theo W. Eberhard [1968: 153] thì một số vùng ở Hoa Bắc coi đây là lễ hội lửa (fire festival).