“Nợ như Chúa Chổm” là thành ngữ rất phổ biến để chỉ người lắm nợ. Nhưng tại sao Chúa Chổm lại lắm nợ như vậy ? Truyền thuyết kể rằng:

Năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết. Trong ngục lạnh tại Đông Hà, nhà vua nhờ người đàn bà bán cơm hàng ngày được phép mang cơm đến cho ăn. Dù mỗi ngày một gầy gò héo hắt vì bị giam cầm, nhưng nhà vua cũng cảm thấy lòng mình đỡ u buồn tẻ lạnh bên cạnh một người đàn bà có một ít sắc đẹp nẩy nở về chiều, ngoan ngoãn chăm nom, săn sóc. Rồi cả hai lại nồng nhiệt yêu nhau.

Một hôm, nàng cho nhà vua biết là nàng đã có thai, đồng thời lại báo tin là họ Mạc định bức tử nhà vua. Vua vẫn bình thản trao cho nàng một ngọc ấn mà từ lâu đã giấu kín trong đai áo, đoạn buồn bã dặn:

– Nếu đứa con của chúng ta sau này là trai thì đây là một chứng vật, không ai chối cãi được nó là dòng dõi đế vương. Còn nếu nó là gái thì nàng hãy liệng ngọc ấn giữa dòng, đừng để cho một kẻ nào lợi dụng!

Vì sao Chúa Trịnh không thích làm vua? - Báo Gia Lai điện tử - Tin nhanh -  Chính xác

Chiêu Tông bị giết chết. Người đàn bà bán cơm may mắn sinh được một trai đặt tên là Duy Ninh. Sợ tung tích bại lộ, nàng bỏ nghề cũ, đem Duy Ninh trốn về thôn quê, kiếm củi đổi gạo nuôi thân. Ninh lớn lên, vẻ người tuấn tú khác thường, ai cũng tấm tắc khen. Nhưng Ninh mắc phải cái tật ăn chơi ngông nghênh, nợ nần nhiều, mẹ con thiếu thốn vất vả, nhiều khi phải nhịn đói, uống nước lã cầm hơi. Tương truyền người nào được Ninh mua mở hàng cho thì bán rất đắt. Người bán hàng nào gặp Ninh cũng đổ ra mời chào bảo mua cho kỳ được. Ninh bảo không tiền và hẹn chừng nào làm ăn khá giả sẽ trả. Họ đều đồng ý, do đó, Ninh thiếu nợ càng nhiều.

Khi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê, các bề tôi nhà Lê kẻ chạy theo tân triều, kẻ tuẫn tiết, kẻ nổi lên chống Mạc. Trong số những bực trung thần có ông Nguyễn Kim trốn sang Sầm Châu, nơi biên giới Việt Lào, nhờ quốc vương Lào giúp đỡ để gây thanh thế chống Mạc.

Muốn nắm được chính nghĩa, Nguyễn Kim quyết định phải tìm cho được một người dòng dõi nhà Lê. Nhưng đã lâu ngày, vì sự đàn áp thẳng tay của họ Mạc, dòng Lê đâu mất cả, Nguyễn Kim không tìm thấy một ai.

Năm Quí Tị (1532), thế lực của Nguyễn Kim khá mạnh, mà dòng Lê vẫn chưa tìm được, ông rất nóng lòng khôi phục cơ đồ, mới nhờ một bốc sư suy đoán việc tiền trình. Bốc sư trịnh trọng tuyên bố:

– Dòng Lê nào đã hết đâu! Hiện nay Chiêu Tông vẫn còn một hoàng tử cuối cùng và vẫn sống lang thang khắp xứ. Nếu có ý muốn tìm, thật chẳng khó. Cứ thấy một thanh niên có tiếng tốt, đầu đội mũ sắt, mình ngồi kiệu cối xay thì hẳn là đúng đó. Người ấy sẽ đem nhà Lê và non sông trở về với phong thái cũ.

Nguyễn Kim mừng lắm, hạ lịnh cho nha lại đi tìm.

Bấy giờ Nguyễn Kim đóng binh ở biên giới Việt Lào để chống với Mạc Đăng Dung, cũng là lúc Duy Ninh đương lang bạt ở đấy. Một hôm, Ninh vừa trong một quán rượu đi ra bỗng gặp một trận mưa rào đổ xuống. Ninh không dù không nón, nhân tìm thấy một cái chảo bỏ không, liền chụp ngay đội lên đầu che mưa. Tiếng náo động của trận mưa làm con chó đương ngủ bên đường thức dậy. Nó lại thấy Ninh lạ kỳ quá nên sủa vang lên và đuổi theo cắn. Ninh đâm hoảng, chạy bổ vào nhà người, nhảy ngay lên một cái cối xay lúa ở hàng ba mà tránh.

Quân sĩ của Nguyễn Kim vừa từ trên đường đi tập trận về, xa xa trông thấy dáng Ninh thì la lớn:

– Vị hoàng tử mà tướng công ta tìm kiếm, chắc là người đội chảo sắt và ngồi kiệu cối xay kia!

Duy Ninh nghe được, tưởng là quân Mạc đuổi bắt mình nên hoảng hốt, ù té chạy. Từ đấy, mẹ con Ninh thấp thỏm lo âu, đem nhau sang đất Lào, tạm sống bằng nghề thợ nhuộm Tuy cuộc sống không sung túc gì, nhưng ở đây xa lạ, không ai biết được tông tích nên mẹ con Ninh tự thấy đỡ khổ đôi phần.

Một hôm, nhân bại trận, Nguyễn Kim rút binh sang Lào. Ông rất ngạc nhiên khi đi ngang qua một căn nhà nhỏ, vách đất cột tre, trước cửa có dán một câu đối bằng chữ Hán:

Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ,
Triều đình chu tử tận ngô môn
(Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ
Đỏ tía triều đình tự cửa ta)

Đọc sơ qua, ý nghĩ tuy biểu lộ được chủ nhân làm nghề thợ nhuộm, nhưng suy ngẫm kỹ thì bên trong còn hàm súc một khí phách phi thường làm cho Nguyễn Kim chú ý. Ông liền ghé vào nhà ân cần gạn hỏi và nói thật nguyện vọng của mình.
Quả thật Nguyễn Kim không lầm. Người mà ông mơ ước từ lâu bỗng nhiên xuất hiện. Mẹ con Duy Ninh kể lại đoạn đời đau khổ vừa qua và trao ngọc ấn làm tin. Nguyễn Kim rước Duy Ninh về Thanh Hóa, cử đại binh đánh Mạc. Duy Ninh được suy tôn đế vị, tức là Lê Trang Tông.

Công cuộc diệt Mạc thắng lợi, vua Chổm trở lại kinh thành Thăng Long. Khi đi qua làng cũ chỗ mẹ con Duy Ninh lánh nạn, một số người bán chịu cho Ninh ngày xưa đổ lại đòi tiền. Họ không biết Duy Ninh làm chức gì nhưng thấy được đi xe giá, quân lính hộ vệ thì chắc là Ninh đã thành đạt, nên họ nhắc lại lời hứa của Ninh. Có nhiều người không phải là chủ nợ nhưng cũng đổ xô lại yêu cầu, đòi hỏi. Người người tấp nập đầy đường, chỉ vào vua mà đòi nợ.

Chuyện xảy ra ở Đại Việt năm Kỷ Hợi cách đây 300 năm - Báo Người lao động

Nhà vua không biết ai và cũng không biết làm sao mà trả cho hết nên truyền miễn thuế một năm cho dân cả làng để trừ. Mặt khác, triều đình ra lệnh cấm những người đòi nợ được chỉ tay xúc phạm vua. Do đó con đường nhỏ có tên là Cấm Chỉ – ngõ có tên tồn tại đến ngày nay ở Hà Nội… (Theo Nguyễn Tử Quang trong “Điển hay tích lạ)

Liệu truyền thuyết đó thực sự có đáng tin không ?

Sử cũ chép rằng, Lê Trang Tông húy Ninh, lại có tên nữa là Huyến. Ông là con của Chiêu Tông. Mẹ là Phạm Thị Ngọc Quỳnh, người sách Cao Tri, huyện Thụy Nguyên (nay là Ngọc Lạc, Thanh Hóa). Khi Đăng Dung bức Chiêu Tông về kinh thì Duy Ninh chạy về Thanh Hóa, lúc đó mới 11 tuổi, được Lê Quán ẵm chạy sang Ai Lao đổi tên là Huyến. Khi Nguyễn Kim mật mưu khôi phục nhà Lê, sai Trịnh Duy Thuấn cùng Trịnh Duy Sản triệu tập thần dân cũ, đón Duy Ninh lập lên làm vua, bấy giờ Duy Ninh được 19 tuổi.
Năm Quý Tỵ ( 1533 ), Duy Ninh lên ngôi ở đất Ai Lao, lấy trại Sầm Hạ làm nơi hành tại, giao kết với vua Ai Lao là Sạ Đẩu để nhờ vả quân lương, mưu việc lấy lại nước…

Năm Bính Ngọ ( 1546 ), Trịnh Kiểm lập hành tại vua Lê ở Vạn Lại ( Thọ Xuân, Thanh Hóa). Lấy danh nghĩa phù Lê diệt Mạc, nhiều hào kiệt danh sĩ đương thời tìm đường vào Thanh Hóa giúp sức như Phùng Khắc Khoan, Lương Đắc Bằng…

Năm Mậu Thân (1548 ), Lê Trang Tông mất, thái tử Duy Huyên kế vị, tức Lê Trung Tông. Theo sử thần Phan Huy Chú, vua cũng lấy lại trại Sầm Hạ làm nơi hành tại…

Như vậy cứ theo chính sử, khi Lê Trang Tông mất, lúc đó vua còn đang đóng đô ở Thanh Hóa, chứ chưa về đến Thăng Long. Mãi đến năm 1592, Trịnh Tùng (con Trịnh Kiểm) mới đánh chiếm được Thăng Long, đó là vào đời Lê Thế Tông ( Duy Đàm); vua thứ tư của nhà Lê Trung Hưng. (49 năm sau khi Lê Trang Tông mất).

Do đó, khó có thể tin rằng chúa Chổm chính là vua Lê Trang Tông ( 1533– 1548) được…!