Huyền thoại về bàn chân Giao Chỉ, là một huyền thoại từng được lưu truyền rất rộng rãi với giả thuyết cho rằng người Việt cổ là giống người có hai ngón chân cái choãi ra, chạm vào nhau, người Việt chúng ta ngày nay không còn giữ được đặc điểm đó nên không phải là hậu duệ của người Việt cổ, thuyết này dẫn tới quan điểm cho rằng người Việt là người Hán sang đồng hóa người bản địa, mang văn minh tới cho người Việt. Giả thuyết này đã được lan truyền rất rộng rãi, mà ít có sự xác minh các thông tin liên quan một cách khoa học và chính xác.

Câu chuyện xung quanh khái niệm Giao Chỉ và bàn chân giao chỉ tuy đơn giản, nhưng đã ảnh hưởng không hề nhỏ tới tinh thần của người Việt kể từ thời Pháp thuộc cho tới tận ngày nay vẫn còn thấy sự ảnh hưởng. Ở bài viết này, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu về nguồn gốc và ý nghĩa của cái tên Giao Chỉ, cũng như tìm hiểu và xác định tính khoa học của thuyết “bàn chân Giao Chỉ”, nhằm góp phần nào đó để giải tỏa những ảnh hưởng huyền thoại này trong tâm thức của người Việt.

1/ Nguồn gốc hai chữ Giao Chỉ

Khái niệm Giao Chỉ là một khái niệm đã xuất hiện rất lâu trong sử sách của người Trung Hoa, nó được sử dụng để chỉ trực tiếp người Việt qua từng giai đoạn, tuy nhiên bắt đầu từ thời Bắc thuộc, một số tác giả đã diễn giải từ Giao Chỉ và gắn nó với ý nghĩa cho rằng “chỉ” liên quan tới ngón chân tật, như là một đặc trưng ngoại hình của người Việt, bắt nguồn từ thời Bắc thuộc.

Sách Dư địa chí của Cố Dã Vương đời Lương (519-581 AD) chép rằng: “Dân mán ấy có ngón chân cái vẹo vào, nếu hai chân đứng ngang, thì hai ngón chân ấy giao nhau.”  [1]

Trong sách Thông Điển, thì soạn giả Đỗ Hựu đời Đường đã ghi lại như sau: “Giao Chỉ là người Nam di, ngón chân cái toạc ra, đứng thẳng hai bàn chân thì ngón chân cái giao vào nhau, cho nên gọi là Giao Chỉ (chỉ là ngón chân cái)”. [2]

Về chữ “chỉ” trong từ ghép “Giao Chỉ”: Khang Hy Tự Điển, Từ Hải ấn hành từ 1947 về trước, Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu đều giảng nghĩa “chỉ” là cái chân. Riêng Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu và Từ Hải ấn hành sau 1950 có ghi chú thêm: sau này cũng gọi “chỉ” là ngón chân. [2]

Về Giao Chỉ, Từ Hải ghi: “Theo sách Lễ Vương chế, người Man ở phương Nam, xâm trán, giao chỉ. Lại giảng rõ thêm: chỉ là chân vậy. Người Man khi nằm, đầu hướng vào trong, chân hướng ra ngoài, hai chân gác tréo lên nhau nên gọi là giao chỉ.” [2]

Các học giả Việt Nam trong các giai đoạn sau này đều diễn giải từ Giao Chỉ theo các cách giải nghĩa của sách vở Trung Hoa.

Tới thời Pháp thuộc, thì các nhà nghiên cứu người Pháp rất chịu khó nghiên cứu và tìm hiểu các thông tin về người Việt trong sách sử Trung Hoa, họ đã tìm thấy thông tin về bàn chân Giao Chỉ, người Pháp đã đưa nó trở lại, sử dụng như một công cụ để tuyên truyền nhằm đánh vào tinh thần dân tộc của người Việt. Có không ít học giả người Pháp cũng đã đồng thuận với giả thuyết cho rằng bàn chân Giao Chỉ là một đặc điểm riêng có của người Việt.

G. Dumoutier cho rằng “chỉ” là “ngón chân cái xòe ra”, Camille Sainson thì cho rằng “nước của người có ngón chân giao nhau”, P. Souvignet thì nói: “bàn chân giao nhau hoặc ngón chân cái giao nhau.”. E. Nordemann thì cho rằng “bàn chân dẹo vào”. Còn một số học giả người Pháp khác như Charles Patris, H. Cordier, P. Couvreur, James Legge cũng đều thể hiện quan điểm tương tự. [1]

Câu chuyện chưa dừng lại ở đây, thuyết bàn chân Giao Chỉ này sau đó còn ảnh hưởng tới nhiều trí thức Việt Nam như Hoàng Cao Khải, Ngô Giáp Đậu, kể cả một trí thức có tinh thần dân tộc cao như cụ Phan Bội Châu, giả thuyết này tác động khá lớn tới tư tưởng, nhận định về nguồn gốc dân tộc Việt của họ. Sự ảnh hưởng đó được thể hiện rất rõ trong tác phẩm Việt Nam Quốc Sử Khảo của cụ Phan Bội Châu:

“Tổng hợp mấy chứng cứ trên, nhân chủng ta ngày nay có thể chắc chắn là nhân chủng người Hán. Ôi, giống rợ khắc trán, ngón chân giao nhau, nhất biến mà trở thành giống Hoa áo mũ tú nhã, tuy là cái bất hạnh của cổ nhân ta, thế nhưng lại là cái may cho hậu nhân ta vậy.”

Các giai đoạn mà từ Giao Chỉ được giải nghĩa gắn liền với bàn chân và sử dụng để chỉ người Việt, là các giai đoạn Bắc thuộc và Pháp thuộc. Đây là các giai đoạn người Việt phải sống dưới ách nô lệ của người  Hán và người Pháp, các chế độ này rất vất vả trong việc kìm hãm và chi phối người Việt, nên đã sử dụng nhiều cách để tấn công vào tinh thần dân tộc của người Việt, họ đã sử dụng từ Giao Chỉ và gắn khái niệm đó với bàn chân giao nhau để thực hiện mục đích đó. Trong giai đoạn Pháp thuộc thì ảnh hưởng của thuyết bàn chân Giao Chỉ là mạnh hơn, nó còn thể hiện sự ảnh hưởng cho tới ngày nay, ảnh hưởng không nhỏ tới tinh thần của người Việt, gây ra những nhận thức sai lệch về nguồn gốc dân tộc, cũng như khiến người Việt tự ti, mang trong mình mặc cảm về một dân tộc dị chủng và có nguồn gốc từ Hán tộc. Tuy nhiên các tài liệu khoa học, ngôn ngữ và khảo cổ đều thể hiện tính thiếu thực tế của bàn chân Giao Chỉ.

2/ Giao Chỉ là gì?

Vậy Giao Chỉ có nghĩa là gì? Các tư liệu sớm nhất phân tích về ý nghĩa của từ Giao Chỉ xuất phát từ thời nhà Lương và thời nhà Đường như chúng tôi đã dẫn ở trên. Tuy nhiên, “Giao Chỉ” nhiều khả năng là chữ ký âm, trong đó chữ Giao là chữ ký âm, chữ Chỉ là chữ được thêm vào sau này bởi người Hoa Hạ. Giả thuyết chữ Giao Chỉ là chữ ký âm đã được nhiều tác giả đề cập tới, như H. Yule, E. Chavannes, Chavannes cũng cho rằng chữ Giao là “chữ thổ âm”. [1]

Ban đầu, khái niệm Giao Chỉ được ghi dưới cái tên Nam Giao, sau đó được chép lại dưới cái tên Giao Chỉ, tới thời Hán về sau thì lại thành Giao Châu [1], qua tiến trình này, chúng ta thấy được chữ Giao là chữ cốt lõi, các chữ khác như “Nam”, “Chỉ”, “Châu” đều được thêm vào sau và không thực sự quan trọng.

Người Việt được nhiều dân tộc trong vùng Đông Nam Á gọi bằng cái tên Keo, như người Thái gọi bằng Kan Keo, Thái Chiềng Mai gọi người Việt là Kiô, người Lào gọi là Kèo, người Mường gọi là Keo, người Thổ cũng gọi là Keo, người Tai khu vực miền Bắc Việt Nam gọi bằng Keo hoặc Kèo, người Dao gọi bằng Keo, người Khmer gọi bằng Kẻ Tiếng [1]. Từ Keo và Giao có cùng nguồn gốc về ngữ âm học.

Truy về ngữ âm nguyên thủy của từ “Keo” hay “Giao”, thì theo nghiên cứu của Michel Ferlus cho thấy từ Giao có âm phục nguyên là kraw, và chữ Keo có nguồn gốc từ âm Hán trung cổ kæw. [3]

jiāo 交 (MC: Middle Chinese: Hán trung cổ; OC: Old Chinese: Hán cổ)

Qua các tài liệu chúng tôi đã dẫn ở trên, chúng ta thấy được rằng chữ Giao có âm gốc là kraw trong ngôn ngữ Nam Á, được sử dụng để chỉ vùng đất bởi người Việt, sau đó được người Hán ký âm thành Giao và sử dụng cùng với các từ Nam Giao, Giao Chỉ, Giao Châu, và trở thành tên gọi để chỉ tộc người.

Chính vì vậy, việc sử dụng từ Giao Chỉ là diễn giải của từ này theo ý nghĩa hướng về bàn chân là không phù hợp với tài liệu ngữ âm học, tên kraw bắt nguồn từ tên vùng đất, sau đó người Hoa Hạ chép lại dưới cái tên Giao, và thêm các yếu tố “Nam”, “Chỉ”, “Châu” tùy theo mục đích của họ.

3/ Và “bàn chân giao chỉ” có cơ sở và căn cứ khoa học nào không?

Việc cho rằng bàn chân Giao chỉ là đặc trưng của người Việt cổ đã thể hiện tính thiếu khoa học của nó, khi nó thường biến mất trong thế hệ sau nếu hậu duệ của họ không tiếp tục làm nông hoặc điều kiện dinh dưỡng, sinh hoạt đầy đủ hơn, và đặc điểm ngón chân cái choãi ra không chỉ có ở người Việt, mà còn có ở các dân tộc vùng cao và người Trung Hoa, cũng như các dân tộc có đời sống gắn liền với đồng ruộng. Theo các nghiên cứu, thì có hai trường hợp dẫn đến sự biến dị ở ngón chân cái:

a. Dân tộc Việt là một dân tộc gốc nông nghiệp, đời sống gắn bó chặt chẽ với đồng ruộng, đặc trưng của họ cũng là đi chân đất, kể cả trong lao động và thường nhật. Bên cạnh đó, khi lao động trên ruộng lúa, thì ngón chân của họ thường choãi ra để giữ thăng bằng, tránh bị ngã, cùng với đó là một chế độ ăn không đủ dinh dưỡng, thiếu canxi, hai yếu tố này kết hợp dễ làm cho xương bị biến dạng, khiến ngón chân cái tõe ra, tạo thành bàn chân với hai ngón chân cái giao nhau. Đặc trưng này không chỉ có ở người Việt mà còn có ở các dân tộc vùng cao, người Trung Hoa, người Đông Nam Á. [4]

Vấn đề này cũng đã được một người Nhật Bản tên Kondo Morishige trong sách An Nam Ký Lược cảo dẫn lời Đàm Khi mà lý giải với quan điểm tương đồng: “Vì không mang giày, đi đất luôn trên cát, cho nên ngón chân mở rộng, giống như hình rẻ quạt.” [1]

b. Hiện tượng biến dị ở chân: hiện tượng hai ngón chân chệch nhau bên cạnh lý do trên, thì còn xuất hiện bởi hiện tượng bệnh lý, được gọi là một biến dị lại tổ (variation atavique) do xương mọc không thẳng như bình thường, hiện tượng này xuất hiện ở nhiều nhóm dân tộc khác như Mã Lai, Thái Lan, Trung Hoa, Ả Rập, Melanesia và người Negrito da đen. Hiện tượng này là bệnh lý và thường sẽ mất sau 1-2 thế hệ. [4]

Tư liệu về ngón chân cái giao nhau trong thời Pháp thuộc của người Việt và người dân tộc. [Nguồn: Trường Viễn Đông bác cổ, dẫn]

Dù là trường hợp a hay b, thì theo PGS Hà Văn Phùng, Viện trưởng Viện khảo cổ học, thì đặc điểm hai ngón chân cái giao nhau đều là do bệnh lý chứ không phải là đặc điểm đặc trưng của người Việt. Các bộ xương Việt cổ thời Đông Sơn hay thời thuộc Hán sau này, đều không có đặc điểm đó, vì vậy, chỉ có thể nói một bộ phận nhỏ, hoặc rất nhỏ trong toàn thể dân tộc Việt có đặc điểm đó. Các “bàn chân Giao Chỉ” chỉ trong một thời gian ngắn đã biến mất trong các thế hệ sau, thể hiện rõ tính thiếu căn cứ khoa học của nó.

4/ Ngón chân cái giao nhau cũng không phải là một hiện tượng phổ biến ở người Việt:

Nhiều học giả người Pháp đã sử dụng khái niệm về bàn chân Giao Chỉ để diễn giải về nguồn gốc của người Việt, tuy nhiên cũng có một số học giả Pháp khác cũng đã cung cấp cho chúng ta những thông tin rất quan trọng để giải tỏa huyền thoại này.

Thorel đã viết trong quyển “Cuộc thám hiểm tại sông Mekong”, cho rằng hiện tượng ấy xuất hiện ở cả người Việt, người Mã Lai, người Hán Hoa Nam và người Phillipines. O. Roux đã đo chiều dài ngón chân của 50 người Việt, 50 người Thái và 20 người Trung Quốc rồi báo cáo kết quả như sau. [1] Kết quả này cho chúng ta thấy tỉ lệ của những ngón dân khác biệt là tương đồng ở người Việt, người Thái và người Hán.

Dân Bắc Việt Người Thái Người Hán
Ngón chân thứ nhất dài hơn ngón chân thứ hai 33 người (66%) 38 người (76%) 13 người (65%)
Ngón chân thứ nhất, thứ hai bằng nhau 3 người (6%) 2 người (4%)
Ngón thứ nhì dài hơn ngón thứ nhất 11 người (22%) 10 người (20%) 7 người (35%)
Kẻ ngón chân mở rộng (tối đa 14mm) 13 người (26%) 10 người (20%) 3 người (15%)

Các quan sát và nghiên cứu thời Pháp thuộc cũng cho thấy lượng người Việt có đặc trưng ngón chân cái vẹo vào là không nhiều.

“Năm 1908, Bonifachi cũng mục kích 6 người (ba đàn ông và ba đàn bà) có ngón chân cái vẹo vào trong, trong ba người đàn bà, có một người là con Việt lai Tàu, người trẻ nhất 16 tuổi, người lớn nhất 30 tuổi. Ch. Madrolle cũng mục kích rõ ràng một người Thái ở Bảo Lộc có tật như thế. Năm 1937, bác sĩ Huard và A. Bigot đã lần đầu tiên phát biểu bài nghiên cứu chung về ngón chân cái vẹo vào của người Việt và về nguyên nghĩa của chữ Giao Chỉ. Kế đến năm 1939, trong kỳ Đại hội Viễn Đông nhiệt đới y học, lần thứ 10 họp ở Hà Nội, cũng trình bày khái yếu kết quả nghiên cứu của hai ông. Lúc bấy giờ hai ông đã quan sát tật ngón chân cái vẹo của 14 người, trong ấy 4 người Cổ Loa, 1 người Bắc Ninh, 1 người Sơn Tây, và 68 người Há Nội (thảy đều dân quê đến ở Hà Nội). Sau đấy, có ông Đỗ Xuân Hợp kế tục công tác nghiên cứu của bác sĩ Huard. Năm 1943, trong bài luận văn phát biểu ở Đông Dương nhơn văn nghiên cứu sở, nghiên cứu kỷ yếu, ông Đỗ đã báo cáo kết quả quan sát về ngón chân vẹo của 20 người dân, kế đến năm 1944, trong một số bài khảo cứu đăng ở Đông Dương Y Học Viện giải phẫu nghiên cứu sở, nghiên cứu báo cáo, tập thứ 8, lại báo cáo kết quả quan sát 28 mẫu ngón chân vẹo, theo phương pháp giải phẫu học và phóng xạ tuyến học.” [1]

Từ những số liệu này, chúng ta thấy được đặc điểm ngón chân cái vẹo vào không phải là một hiện tượng phổ biến trong người Việt. Bác sĩ Mouzels ở nhà thương Bảo Hộ Hà Nội, sau hai năm quan sát, đã tính toán tỉ lệ người Việt có tật ngón chân đó chỉ khoảng 1/1000 mà thôi.

“Một việc nữa chúng ta đáng chú ý là tật ngón chân cái xòe vào, chẳng những riêng ở Việt Nam mà là một hiện tượng chung ở các xứ trên thế giới. Bác sĩ Huard đã từng nêu ra những bài báo cáo của các ông Hoffe, Kirmission, Potel, Mouchet, Bohème, và R. Imbert về hiện tượng ngón chân cái xòe ra của người Âu Châu. Năm 1903, ông Volkov, trong lúc du hành ở đông bộ Galilée (miền Bắc Palestine) có chụp hình một người đàn bà giống Hautzoule có ngón chân cái xòe ra. P. River từng báo cáo hiện tượng ngón chân cái tách ra của giống dân Vedda ở Ấn Độ, Sarrasin cũng nhận thấy tật này ở giống dân Vedda và Caraibe. R. Martin, trong cuốn Nhơn loại học khái luận có chép về một phụ bản hình bàn chân có ngón cái rẽ vào của giống người Butam. E. Mjoberg cuungx đề cập dân giống Punan ở đảo Borneo cũng có bàn chân như thế. Cứ theo sự khảo sát của ông Đỗ Xuân Hợp, đến nay các con nít Âu Châu vẫn còn những vết tích bàn chân vẹo ấy, nhất là người da đen, giống dân Vedda, người Australien, hình tượng ấy còn rất nhiều. Như vậy chúng ta đã hiểu rõ trong người Việt Nam, tuy có tìm thấy một số người có bàn chân như vậy, nhưng tật ấy nhất định không phải hiện tượng đặc biệt của một dân tộc riêng.” [1]

Như vậy chúng ta có thể thấy được rằng ngón chân cái giao nhau xuất hiện rất rộng trong nhiều dân tộc trên khắp thế giới, không chỉ người Việt có đặc điểm này, chính vì vậy, không thể cho rằng bàn chân Giao Chỉ là một đặc trưng của người Việt, và như chúng tôi đã chứng minh, giả thuyết về bàn chân Giao Chỉ cũng không có giá trị về mặt khoa học, ngữ âm học lịch sử.

5/ Kết luận

Giả thuyết về bàn chân Giao Chỉ đã từng có ảnh hưởng lớn tới tâm tư của người Việt trong một thời gian dài, tuy nhiên các dữ liệu lịch sử, ngôn ngữ, khảo cổ đã thể hiện tính thiếu khoa học của việc diễn giải khái niệm Giao Chỉ và gắn nó với đặc điểm ngoại hình của người Việt cổ. Hình thái ngón chân giao nhau xuất phát từ đời sống lao động và đặc trưng đi chân đất, chúng xuất hiện không chỉ ở người Việt mà còn xuất hiện trên khắp thế giới, ở nhiều dân tộc. Vì vậy, chúng không phải đặc trưng của người Việt, và cũng không phải chỉ người Việt mới có bàn chân như vậy.

Chúng ta cần tỉnh táo hơn trước các thông tin về nguồn gốc dân tộc, tránh để những giả thuyết sai lệch và nguy hại như thuyết bàn chân Giao Chỉ ảnh hưởng tới nhận thức chung về nguồn gốc dân tộc, bên cạnh đó cũng cần chú tâm tìm hiểu về nguồn gốc và các nền văn hóa cổ của dân tộc mình trong quá khứ. Việc tìm hiểu nguồn gốc dân tộc trong giai đoạn tiền Hán thuộc sẽ giúp chúng ta nhận diện chính xác hơn diện mạo nền văn hóa cổ của dân tộc mình, sẽ thấy được một quá khứ đáng tự hào và trân trọng mà tổ tiên chúng ta đã gầy dựng nên, thoát khỏi tâm lý mặc cảm, tự ti về nguồn gốc, điều đó cũng là rất quan trọng đối với sự phát triển và đi lên của văn hóa dân tộc Việt trong các giai đoạn sau này.


Các bài viết tham khảo:

[1] Trần Kinh Hòa (Cheng Ching-Ho), 1960, Khảo cứu về danh xưng Giao Chỉ, tạp chí Đại học Huế.

[2] Trần Lam Giang, Nguồn gốc người Bách Việt.
https://luocsutocviet.wordpress.com/2019/04/10/220-nguon-goc-nguoi-bach-viet/

[3] Ferlus, Michel. “Formation of Ethnonyms in Southeast Asia.” (2009).
https://halshs.archives-ouvertes.fr/halshs-01182596/document

[4] Nguyễn Lân Dũng, Vì sao người Việt cổ được gọi là người Giao Chỉ.
https://nongnghiep.vn/vi-sao-nguoi-viet-co-duoc-goi-la-nguoi-giao-chi-post18427.html