Cổ nhân có câu: “Làm quá nhiều việc bất nghĩa thì tự sẽ bị thương vong”. Từ xưa đến nay, những người làm việc ác thì cuối cùng cũng đều bị ‘ác báo’. Trong lịch sử có không ít gian thần sống mưu mô hèn hạ cuối cùng đã phải nhận một kết cục bi thảm giống nhau.

Dưới đây là những đại gian thần vô liêm sỉ nhất trong lịch sử và kết cục bi thảm mà họ và toàn bộ gia tộc phải gánh chịu.

quả báo
(Hình minh họa: Qua read01)

1. Triệu Cao triều nhà Tần

Triệu Cao (? – 207 TCN), là người nước Triệu, là tể tướng, thái giám đầu tiên của Trung Quốc. Ban đầu, bởi vì Triệu Cao khỏe mạnh có lực lại thông hiểu về hình ngục nên nhận được sự khen ngợi của Tần Thủy Hoàng. Vì vậy, Tần Thủy Hoàng đã phá cách phong ông làm Trung xa phủ lệnh, đồng thời sai Triệu Cao dạy dỗ người con trai út của mình là Hồ Hợi.

Tháng 7 năm 210 TCN, Tần Thủy Hoàng bị chết trên đường đi tuần du. Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, Triệu Cao đã giả mạo chỉ dụ của Vua, sửa lập Hồ Hợi kế vị, giết chết con trai cả là Doanh Phù Tô, 12 công tử, 10 công chúa và đại tướng quân Mông Điềm, Hữu thừa tướng Phùng Khứ Tật.

Khi Hồ Hợi làm vua, Triệu Cao lại hãm hại giết chết thừa tướng Lý Tư rồi lên làm Thừa tướng. Triệu Cao vượt quyền trong việc triều chính, sát hại hoàng tộc, đại thần, trắng trợn bịa đặt tội danh cho người đối lập với mình rồi hãm hại. Hơn nữa, Triệu Cao còn trước mặt Nhị Thế Hồ Hợi mà “chỉ hươu bảo ngựa”.

Đến thời Tần Mạt, Triệu Cao lại giết Nhị Thế Hồ Hợi. Sau khi Hồ Hợi bị giết, Triệu Cao muốn xưng vương ở Quan Trung, bèn bí mật liên lạc với Lưu Bang để xin cùng diệt nhà Tần và chia đôi Quan Trung. Để thực hiện mưu đồ này, ông ta lập Tần Tử Anh (em trai Tần Thủy Hoàng) lên ngôi vua để định sau sẽ giết chết. Nhưng sau 5 ngày lên làm vua, Tần Tử Anh đã cho người giết chết Triệu Cao và tru di tam tộc.

2. Đổng Trác triều nhà Hán

Đổng Trác
(Hình minh họa: Qua riseof3kingdoms.com)

Đổng Trác (132 – 192), tên chữ là Trọng Dĩnh, là người huyện Lâm Thao, Lũng Tây. Đổng Trác là người có mưu mô, tính tình thô lỗ, có thể lực hơn người. Thuở nhỏ, Đổng Trác thích làm hiệp khách, thường du ngoạn ở Khương Trung và kết giao với hết thảy những kẻ hào kiệt ở đó. Lúc đầu, ông làm chức phó coi việc quân, trông giữ binh khí và ngựa chiến. Về sau, ông được cử làm Vũ Lâm lang, Quân tư mã, Lang trung.

Năm 184, khởi nghĩa Khăn Vàng (Hoàng Cân) nổ ra, Đổng Trác được làm Đông Trung lang tướng tới Ký châu thay Lư Thực (bị vu cáo bãi chức) đánh quân Khăn Vàng. Nhưng ông đã bị thua trận và bị bãi chức.

Đầu năm 189, Hán Linh Đế bị bệnh nặng, không lâu sau thì chết, Hán Thiếu Đế lên ngôi. Đổng Trác sau đó thao túng triều đình và phế Hán Thiếu Đế, lập Hán Hiếu Đế, tự phong mình làm Tướng quốc, sát hại những người bất đồng, lộng hành triều chính, hung bạo dâm loạn khiến dân chúng căm phẫn.

Đổng Trác đốt cháy Lạc Dương, xây một ngôi lầu lớn ở phía tây thành Trường An làm công quán hưởng lạc vì sợ ở trong cung bị ám sát. Tháng 2 năm 191, Đổng Trác tự xưng mình làm Thái sư, quyền hành cao hơn cả Vua, thi hành hàng trăm chính sách bóc lột đến cùng cực, cướp đoạt của cải. Theo tính toán, số vàng lên đến 2-3 vạn cân, bạc trắng 8– 9 vạn cân, gấm lụa chồng chất như núi. Năm 192, Đổng Trác bị người của Tư Đồ Vương Doãn giết chết, đồng thời bị tru di 3 họ.

3. Lý Lâm Phủ triều nhà Đường

quả báo
(Hình minh họa: Kknews.cc)

Lý Lâm Phủ (683—752 ) tên mụ là “Ca Nô” là người Thiểm Tây là tể tướng triều đại nhà Đường. Lý Lâm Phủ là người giỏi về luồn cúi, mưu kế, gian trá và thâm hiểm.

Năm 734, Lý Lâm Phủ bắt đầu làm tể tướng. Trong suốt những năm giữ chức vụ của mình, Lý Lâm Phủ chuyên dùng lời bỡ đỡ lấy lòng Hoàng thượng, cấu kết hoạn quan, phi tần, mưu mô hãm hại người đối lập.

Trước mặt, ông ta tỏ ra chân thật lấy lòng người khác để họ trò chuyện nói ra những suy nghĩ của mình, sau lưng ông ta sẽ đem những chuyện đó của họ tấu lên Hoàng thượng. Những người này nếu không bị cách chức thì cũng không thể thăng tiến lên được.

Người đời gọi Lý Lâm Phủ là người “miệng mật lòng gươm”, kéo bè kết phái, bài trừ người đối lập, tham ô hối lộ, sống một cuộc sống xa hoa trụy lạc.

Tháng 11, năm 752, Lý Lâm Phủ bị bệnh mà chết. Lý Lâm Phủ vừa chết bị Dương Quốc Trung tố giác, ngay lúc chưa chôn cất liền bị lột bỏ tước vị và được mai táng như dân thường, toàn bộ con cháu trong gia tộc bị đày đi Lĩnh Nam sống cuộc đời khổ sai lưu đày.

4. Tần Cối triều nhà Tống

quả báo
(Vợ chồng gian thần Vương thị – Tần Cối. Hình: Qua kaiwind.com)

Tần Cối (1091 —1155), tên chữ là Hội Chi, người Giang Ninh. Ông là tể tướng dưới thời Nam Tống. Năm 25 tuổi ông đỗ tiến sĩ và bước chân vào chốn quan trường. Năm 1127, Tần Cối bị bắt đến nước Kim, ham sống sợ chết mà trở thành kẻ thù của nước Tống.

Sau khi được trở về triều Tống, ông ta tìm mọi cách để leo lên làm tể tướng nhằm thực hiện âm mưu của mình. Tháng tám năm Thiệu Hưng thứ hai, Tần Cối bị bãi chức tể tướng. Đến đầu năm thứ tám Thiệu Hưng, Tần Cối lại được làm tể tướng bởi vì ông ta có mối quan hệ tốt với nước Kim mà triều đình khi ấy muốn làm hòa với nước Kim.

Lúc này, Tần Cối câu kết với bên ngoài, dùng mọi thủ đoạn giết hại đại thần và những người đối lập với nước Kim. Ông ta còn bịa đặt tội danh để giết hại Nhạc Phi, tạo thành án oan thiên cổ.

Năm 1155, Tần Cối bị bệnh mà chết. Con trai của Tần Cối bấy giờ mưu cầu kế thừa tướng vị nhưng bị Tống Cao Tông cự tuyệt. Tần gia từ đó trở đi bị thất thế. Về sau, Tống Hiếu Tông đã sửa lại án oan cho Nhạc Phi và liệt Tần Cối là đối tượng “đầu sỏ” gây ra án oan, cũng tước bỏ Vương tước của ông ta.

Về sau, người dân tại Tây Hồ, Hàng Châu tu tạo Nhạc phần, Nhạc miếu để vĩnh viễn tưởng nhớ về danh tướng Nhạc Phi. Ở trước mộ của Nhạc Phi, người ta để mấy bức tượng sắt thô của Tần Cối và vợ ông ta đang quỳ gối, quây trong hàng rào sắt, vai ngực lột trần, tay trói sau lưng, để đó cho người thế gian thóa mạ và đánh đập.

Tương truyền trong dân gian rằng, dân rất hận Tần Cối nên đã dùng mỳ làm thành hình tượng ông ta rồi ném vào bên trong chảo dầu sôi để tạc gọi là “Du tạc Cối”, sau này biến thành bánh quẩy như ngày nay.

5. Ngụy Trung Hiền triều nhà Minh

quả báo
(Hình minh họa: Qua ilishi.com)

Ngụy Trung Hiền (1568—1627) nguyên tên là Ngụy Tiến Trung, là người Túc Ninh, tỉnh Hà Bắc. Ông là hoạn quan vào cuối triều nhà Minh.

Thời trẻ, ông là một kẻ vô lại, ham mê đánh bạc, ăn chơi trác táng. Vì thua tiền, bị đòi nợ, phải trốn chui trốn lủi không còn đường sống nên phải tự thiến để vào cung, làm một tiểu hoạn quan. Năm 1589, ông ta vào cung cấu kết với Khách Thị là nhũ mẫu của Hoàng đế Hy Tông và bắt đầu “một bước lên mây”, mở màn cho “hoạn quan chuyên quyền”.

Khi Hy Tông lên ngôi, Ngụy Trung Hiền được tín nhiệm. Ông ta câu kết Khách Thị, bài trừ những người đối lập, kéo bè kết phái. Năm Thiên Khải thứ 3 (1623) Ngụy Trung Hiền kiêm luôn việc trông coi Đông xưởng là cơ quan đặc vụ của triều đình, thế lực ngày càng mạnh. Nội các của triều đình đều là tay chân của Ngụy Trung Hiền, bọn họ tranh nhau gọi ông là cha, là ông nội, tự xưng mình là con nuôi, cháu nuôi. Nhân vật quan trọng của đảng hoạn quan Ngụy Trung Hiền là “Ngũ hổ”, “Thập cẩu”, “Thập hài nhi”, “Tứ thập tôn”.

Một nhóm lớn những người bất mãn với Ngụy Trung Hiền đã bị chết thảm trong nhà ngục. Những người “vô liêm sỉ” đã a dua theo đuôi Ngụy Trung Hiền, còn có đám quan đề xướng xây nhà thờ để thờ sống Ngụy Trung Hiền ở khắp nơi, tiêu tốn vô vàn của cải của dân.

Ngụy Trung Hiền lộng quyền triều chính, giết hại người đối lập đến nỗi mà người ta “chỉ biết đến Ngụy Trung Hiền chứ không biết đến Hoàng thượng”. Năm 1627, sau khi Minh Tư Tông kế vị đã khép Ngụy Trung Hiền phạm 10 đại tội và xử theo pháp luật. Ngụy Trung Hiền treo cổ tự vẫn mà chết, đảng phái của ông ta cũng bị quét sạch, tiếng ác lưu truyền ngàn đời.

tu dưỡng
(Hình minh họa: Qua wemedia.ifeng.com)

6. Đệ nhất tham quan Hòa Thân triều  Thanh

Hòa Thân (1750–1799), nguyên tên là Thiện Bảo, tên tự là Trí Trai, là người Chính Hồng Kỳ, Mãn Châu, tộc  Nữu Hỗ Lộc. Năm 10 tuổi ông được đưa vào cung và làm thị vệ. Ban đầu, Hòa Thân giữ chức quan nhỏ Loan nghi vệ.

Bởi vì giỏi về ăn nói, xu nịnh nên được vua Càn Long sủng ái. Hòa Thân không từ một thủ đoạn nào, khi lên địa vị cao hơn ông ta không ngại loại bỏ kẻ đối lập, chiêu mộ những người thân tín, vơ vét của cải.

Năm Gia Khánh thứ 4 (năm 1799), vua Càn Long băng hà. Chỉ 5 ngày sau, Gia Khánh đế lập tức hạ chỉ cách chức Hòa Thân và bỏ tù.

Lúc khám xét nhà của gian thần này người ta phát hiện, trong 20 năm Hòa Thân đương quyền, của cải mà ông ta vơ vét được ước tính là 800 triệu đến 1,1 tỷ  lượng bạc trắng. Ngoài ra còn có vàng, bạc, đồ cổ, đồ châu báu, ước tính có giá trị lớn hơn tổng số thu nhập trong 15 năm của chính phủ triều đại nhà Thanh.

Sau khi vua Càn Long băng hà 15 ngày, Gia Khánh đế đã ban cho Hòa Thân dải lụa trắng để tự vẫn. Hòa Thân được xưng là “đệ nhất tham quan” trong lịch sử. Người đương thời có câu: “Hòa Thân té ngã, Gia Khánh ăn no” là ám chỉ điều này.

7. Gian thần Hoàng Hạo thời Tam Quốc

quả báo
(Hình minh họa: Qua read01)

Hoàng Hạo là một hoạn quan, gian thần thời Thục Hán trung, suy và diệt vong. Lúc ban đầu, Hoàng Hạo hầu hạ Thái tử Lưu Thiện. Sau khi Thái tử Lưu Thiện lên ngôi, Hoàng Hạo là một người giỏi về đoán ý và nịnh thần nên lấy được lòng của Hoàng đế Lưu Thiện.

Thời kỳ đầu, bởi vì trước có Thừa tướng Gia Cát Lượng, sau có Thị trung Đổng Doãn chủ trì việc triều chính nên Hoàng Hạo không dám thực hiện mưu kế gian xảo của mình. Lúc ấy, Hoàng Hạo cũng chỉ dừng ở chức vị Hoàng môn thừa.

Năm 246, Đổng Doãn chết, Trần Chi lên thay Đổng Doãn làm thị trung, cùng Hoàng Hạo cấu kết với nhau làm việc xấu, Hoàng Hạo bắt đầu được tham dự vào chính sự. Đầu năm Cảnh Diệu (năm 258), Trần Chi chết, Hoàng Hạo lên làm Trung thường thị, Phụng xa đô úy, nắm hết quyền hành, thao túng triều chính, dụ dỗ vua phóng túng, hoang dâm, khiến việc triều chính ngày càng hủ bại.

Năm 263, nước Thục rơi vào tay Tào Ngụy. Hoàng Hạo bị dẫn về Lạc Dương. Tư Mã Chiêu cho rằng Hoàng Hạo sẽ khiến quốc gia diệt vong nên đã ban cho ông ta cái chết.

 8. Cáp Ma triều nhà Nguyên

Cáp Ma (? —1356 ) là gian thần thời cuối nhà Nguyên, tên tự là Sỹ Liêm, người Khang Lý. Mẹ của Cáp Ma là nhũ mẫu của Nguyên Ninh Tông cho nên ông ta được vào cung làm Túc vệ.

Năm 1341, Nguyên Thuận Đế bổ nhiệm ngự sử đại phu Thoát Thoát lên nắm quyền, thay đổi niên hiệu thành Chí Chính, tuyên bố “canh hóa”, lịch sử xưng là “Thoát Thoát canh hóa”. Lúc này Thoát Thoát làm tướng nên Cáp Ma a dua, bám hùa theo.

Một thời gian sau, giữa ông ta và Thoát Thoát xảy ra bất hòa nên ông ta quyết tâm giết hại Thoát Thoát. Đến năm 1354, Thoát Thoát được cử đi đánh dẹp cuộc nổi dậy của Trương Sĩ Thành ở Cao Bưu, Giang Tô. Chiến sự bất lợi, cộng thêm sự dèm pha trong triều đình khiến Thoát Thoát bị cách hết mọi chức vụ và đày đi Vân Nam.

Cáp Ma nịnh nọt, dùng thuật mị Thuận Đế, tuyển chọn nhiều phi tần vào cung khiến quân thần dâm loạn, trụy lạc chưa từng có. Năm 1355, Cáp Ma lên làm Trung thư tả thừa tướng. Tháng 12 năm đó, ông ta giả truyền chiếu lệnh buộc Thoát Thoát tự vẫn. Tháng 2 năm sau, Cáp Ma bị vạch tội và bị giết chết.

Tới năm 1362 thì Thoát Thoát mới được phục hồi danh dự, tuy nhiên cái chết của ông cũng đánh dấu sự sụp đổ không thể tránh khỏi của nhà Nguyên.

9. Nguyễn Điền Phu thời Nam Bắc triều

quả báo
(Hình minh họa: Qua nizmlab.com)

Nguyễn Điền Phu (427——477) là người đất Chư Kỵ, Hội Kê (nay là Chiết Giang), là gian thần thời Lưu Tống.  Nguyễn Điền Phu xuất thân là một tiểu lại. Khi Tương Đông vương Lưu Úc đến phong quốc đã chọn Nguyễn Điền Phu làm Chủ y. Về sau, ông làm thầy giáo của Thế tử Lưu Dục nên rất được tín nhiệm.

Cuối niên hiệu Cảnh Hòa (năm 456), Nguyễn Điền Phu cấu kết với nội thị sát hại Tiền phế đế Lưu Tử Nghiệp, người vừa lên ngôi được một năm và lập Lưu Úc lên làm Vua, lấy thụy hiệu là Lưu Tống Minh Đế.

Sau khi Lưu Tống Minh Đế lên ngôi trọng dụng những người thân tín, Nguyễn Điền Phu nhờ có công nên được phong Kiến Thành huyện hầu, ban thực ấp 800 hộ. Về sau Nguyễn Điền Phu lại được thăng làm Nam đài thị ngự sử. Sau khi cùng quân đội các nơi đánh dẹp loạn phản lại được thăng làm Long tương tướng quân, Tư đồ tham quân và được ban thưởng 200 hộ, cả thảy 1000 hộ.

Càng có quyền lực, Nguyễn Điền Phu càng chuyên quyền tham ô, phàm là việc gì mà không có đút lót thì không làm. Trong các cung thất của Nguyễn Điền Phu, kỹ nữ mấy chục người, số lượng vàng ngọc, gấm vóc, đồ trang sức mà ông ta sở hữu ngay cả cung đình cũng không sánh kịp.

Một lần Trung thư xá nhân Lưu Hưu đến chơi, đúng lúc Điền Phu ra ngoài, giữa đường gặp nhau, cùng Hưu quay về, vừa ngồi xuống, ông lệnh cho bày tiệc, một lúc sau thì có đủ các món ngon vật lạ, không hề mất công chuẩn bị. Điền Phu thường làm sẵn mấy chục món như thế để đãi khách cho tiện lợi.

Dưới quyền của Nguyễn Điền Phu, chức tước bổng lộc lộn xộn, những kẻ nô bộc của Điền Phu theo đó mà có được những tước vị không xứng đáng. Người đánh xe làm Hổ bôn trung lang, kẻ dắt ngựa làm Viên ngoại lang. Quan viên trong triều, cả sang cả hèn, không ai không tìm cách kết giao với ông.

Năm 472, Tống Minh Đế chết, Lưu Dục lên ngôi lấy hiệu là Lưu Tống Hậu phế đế, quyền lực của Điền Phu càng trở nên lớn mạnh. Lưu Dục tuổi còn nhỏ nên Nguyễn Điền Phu dễ dàng thao túng, thâu tóm việc triều chính. Đến lúc Lưu Dục lớn hơn, Nguyễn Điền Phu lại muốn phế trưởng lập ấu để tiếp tục lộng quyền.

Năm 477, Nguyễn Điền Phu cùng phe cánh lập mưu giết chết Hậu phế đế, muốn nhân lúc vị Vua này ra ngoài dạo chơi thì giết chết nhưng sự việc không thành. Sau khi có người tố giác, mưu kế bị lộ, Nguyễn Điền Phu bị xử chém đầu.

10. Dương Tố gian thần triều nhà Tùy

quả báo
(Hình minh họa: Qua kknews.cc)

Dương Tố (544 —606), tên tự là Xử Đạo, là người đất Hoa Âm, Hoằng Nông (Thiểm Tây ngày nay). Dương Tố là gian thần triều nhà Tùy.

Dương Tố sinh ra trong một gia đình làm quan. Thời đầu, ông ta làm Tư Thành Đại phu, Xa Kỵ Tướng quân thời Bắc Chu Vũ Đế. Về sau, khi phò tá nhà Tùy, do có tham gia với Dương Kiên đoạt quyền nên càng được tin dùng, do có công lao diệt nhà Trần nên được phong Thượng trụ quốc, Ngự sử đại phu. Dương Tố chuyên dùng mưu mô, dối trá, a dua xu nịnh, không theo đạo nhân nghĩa mà lập thân. Dương Tố kết bè cánh phò tá Tấn Vương Dương Quảng, tham dự âm mưu bí mật của cung đình, phế Thái tử Dương Dũng, lập Dương Quảng làm Thái tử.

Năm Nhân Thọ thứ 4 (năm 604), Dương Tố giả truyền thánh chỉ, phái binh lính Đông cung vào cung sát hại Văn đế Dương Kiên giúp Dương Quảng lên đoạt ngôi, lấy thụy hiệu là Tùy Dạng Đế. Sau khi sự việc thành công, Dương Tố được phong chức Sở quốc công, quan đến Tư Đồ, quyền thế ngày một tăng.

Dương Tố tham lam tiền của, ra sức vun đắp gia sản, ở Đông Kinh, Tây Kinh đều có phủ đệ, hết sức xa xỉ. Lại còn chiếm đất mở rộng nhiều ruộng vườn nhà cửa, phân bố cả nghìn nơi ở các châu huyện. Năm Đại Nghiệp thứ 2 (năm 606) thì bị bệnh chết. Năm Đại Nghiệp thứ 9 (năm 613), con trai của ông ta là Lễ bộ Thượng thư Dương Huyền Cảm dấy binh làm phản lại nhà Tùy bị thất bại khiến cả nhà bị chém đầu.

Cổ nhân tin rằng: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”. Tục ngữ cổ cũng có câu: “Thiện ác không phải không có báo mà là chưa đến lúc”. Đây thực sự là những ví dụ điển hình trong lịch sử minh chứng cho điều này, làm gương cho hậu thế.

An Hòa (biên dịch và t/h)