Trung Quốc cổ đại từng nhiều lần phát sinh dịch bệnh, cho nên trong lịch sử cũng lưu lại một số phương thuốc thần kỳ, ví như “huân hương” (mùi thơm của hoa cỏ)… Ngoài huân hương, người xưa còn mang theo túi thơm bên mình. Có thể nói túi thơm là đại bảo bối bất ly thân để phòng chống dịch bệnh của người xưa. Tuy nhiên, muốn để tà khí không quấy nhiễu, biện pháp tốt là trong mình có chính khí của Trời đất.

Huân hương (cỏ thơm)

Vào thời Hán Vũ đế trị vì, Trong “Sơn Hải kinh” có ghi chép: Vùng núi phía Bắc Côn Lôn có một con sông, thuyền không thể qua vì sức nổi của nước quá yếu nên gọi là Nhược Thủy. Phía Tây có một nước gọi là Đại Nguyệt Thị, từng phái người chèo một loại thuyền đặc thù – gọi là “Mao xa” vượt qua Nhược Thuỷ, hướng đến triều đình Tây Hán để tiến cống 3 miếng hương liệu. Nhìn ngoại hình thì 3 miếng hương liệu trông giống như quả táo nhưng lại có kích thước to như trứng chim phượng hoàng. Bởi vì ở lúc đó thành Trường An đang phát sinh ôn dịch, trong cung có rất nhiều người bị lây nhiễm, thế là sứ giả thỉnh cầu thiêu đốt hương liệu đã tiến cống, dùng để trừ ôn khí đi. Sau khi thiêu đốt một miếng hương liệu, người bệnh trong cung đều đang từ trạng thái nguy cấp chuyển sang bình an, không lâu sau thì hồi phục hoàn toàn một cách kỳ diệu. Hơn nữa mùi hương còn phát tán xa ngàn dặm, nhiều ngày sau vẫn chưa tan hết.

Theo “Bác vật chí” của Trương Hoa ghi chép, người chết vì dịch bệnh chưa quá 3 ngày, sau khi ngửi thấy mùi hương này lại có thể hoàn hồn phục sinh. Trong “Hải nội thập châu ký”, Đông Phương Sóc từng miêu tả rằng: “Trong vòng trăm dặm có thể ngửi thấy khí hương, người chết trên đất ngửi thấy khí này sẽ được cứu sống”. “Hán vũ đế nội truyện” cũng mô tả lại sự việc tương tự, hương này là nước Nguyệt ở Tây Vực tiến cống cho triều Hán có nguồn gốc từ “Cây phản hồn”, vì có hiệu quả hoàn hồn mà được gọi là “Phản hồn hương”.

Trong “Hoàng đế nội kinh”, “Ôn bệnh điều biện”, “Thiên Kim yếu phương” cùng “Thương hàn luận” đều có ghi chép về việc dùng Huân hương phòng trừ dịch bệnh. Triều đình nhà Tống còn thiết lập ra cục thái y và cục dược liệu, đồng thời còn cho biên soạn hai cuốn sách lớn về y dược là “Thái bình thánh huệ phương” và “Thái bình huệ dân hòa tề cục phương”. Trong cuốn “Thái bình thánh huệ phương” có ghi lại nhiều loại phương pháp dùng hương liệu để phòng dịch bệnh. Người xưa cho rằng bệnh là do tà khí xâm nhập qua miệng và mũi, nếu hít vào miệng và mũi mùi thuốc hương liệu thì sẽ làm kinh mạch khai thông, trừ khử tà khí và phụ trợ chính khí, đạt được tác dụng trừ bệnh, bồi bổ thân thể.

Hương nang (Túi thơm)

Túi thơm là một loại túi đeo, ở trong chứa hương liệu là gọi tên như thế. Theo người xưa ghi chép lại còn gọi loại túi này là bội vi (gói hương liệu), dung xú (bọc hương liệu), hương đai (túi hương liệu đeo) hoặc là hương bao (bao hương liệu)…

Ví như Khuất Nguyên thời Chiến Quốc có ghi lại trong bài thơ “Ly Tao” rằng: “Tiêu chuyên nịnh dĩ mạn thao hề, sát hựu dục sung phu bội vi” (từ bội vi đây là chỉ gói hương liệu).  Trong “Lễ ký – Nội tắc” có ghi: “Nam nữ vị quan kê, câm anh giai bội dung xú”,( từ “dung xú” cũng là chỉ túi thơm.) Túi thơm thường được đeo bên cạnh hông trên đai lưng hoặc phía dưới đai lưng chỗ khuỷu tay, cũng có khi treo trên rèm giường hoặc trên xe.

Sách “Bão phác tử – Đăng thiệp” có ghi chép: “Hoàng Đế muốn leo núi Viên Khâu, đất này có nhiều rắn lớn, thế nên Quảng Thành Tử bảo ông cần đeo hùng hoàng, thì rắn ở đó đều sẽ bỏ đi”. Ghi chép này được học giả người Mỹ là Wolfram Eberhard trích dẫn trong cuốn “Từ điển tượng trưng văn hóa Trung Quốc” do ông biên soạn có phần giải thích như sau: “Trong một lần đại dịch, nghe nói Quảng Thành Tử y đạo cao minh, nên Hoàng Đế đến xin chỉ dạy phương pháp chữa trị dịch bệnh. Sau đó Quảng Thành Tử đã dùng hùng hoàng cho vào các gói và bảo Hoàng Đế hãy đeo nó bên người, kết quả đã chữa trị khỏi.” Do đó, từ thời thượng cổ, con người đã biết mang hương liệu trên người, đạt được tác dụng trừ tà phòng dịch.Thời cổ đại, túi thơm là vật dụng thông thường, ngay cả cung nữ cũng không ai không đeo túi thơm bên mình. Đây chính là nguyên nhân mà trên mỗi đoạn đường mà người thiếu nữ xưa đi qua đều để lại mùi hương.

Câu thơ: “Quái đắc khinh phong tống dị hương, Phinh đình Tiên tử duệ nghê thường” (Lạ lùng gió nhẹ đưa hương, Thướt tha Tiên nữ nghê thường áo bay) trong bài “Tặng Vương Phúc Nương” của Thôi Đạm đời Đường đã chứng minh điều này.

Trong bài thơ “Vịnh mỹ nhân tại Thiên Tân kiều”, Lạc Tân Vương viết: “Mỹ nữ xuất đông lân, dung dữ tại thiên tân, đông y hương mãn lộ, di bộ miệt sinh trần” (Mỹ nhân đi từ phía Đông đến, nhẹ nhàng dạo bước bên cầu Thiên Tân, Chỉnh xiêm y hương phủ kín đường, Bụi hương bay theo bước chân ngà thong dong).

Đến thời nhà Minh phong tục mang theo túi thơm vào dịp Tết Đoan Ngọ rất thịnh hành và phong phú. Trong bài thơ “Biện trung Nguyên tịch”, Lý Mộng Dương viết: “Ngọc quán châu thành liễu mạch tà, tống kinh đăng nguyệt tán yên hoả, môn ngoại hương xa nhược lưu thuỷ, bất tri thanh điểu hướng thuỳ gia”. Nghĩa là xe kiệu nườm nượp đi qua cửa, hương thơm ngát tỏa ra từ người mỹ nữ trên xe. Có thể thấy phong tục đeo túi thơm của thiếu nữ thời đó rất thịnh hành.

Hình dáng của túi thơm cũng rất đa dạng, phong phú. Có cái hình tròn, hình vuông, hình ô van, hình bầu dục, hình hồ lô, hình thạch lựu, hình đào, hình yêu viên, hình phương thắng… đa phần là do hai miếng kết lại, ở giữa rỗng, miệng túi khép kín lại, nhưng túi thơm đều có lỗ thông khí để hương thơm có thể tỏa ra bên ngoài. Trên đỉnh túi thơm có treo sợi tơ lụa, phía dưới buộc sợi dây bện kết (bách cát) hoặc châu ngọc có tua rua. Chất liệu may túi thơm cũng rất phong phú, có cái dùng ngọc điêu khắc, có cái là dây vàng, dây bạc, điểm xuyết ngọc phỉ thúy và sợi lụa màu.

“Cựu Đường thư” quyển 5 có ghi chép: “An Lộc Sơn phản loạn, Huyền Tông chạy trốn khỏi Trường An, khi đi đến sườn đồi Mã Ngôi, ban chết cho Dương Quý Phi và an táng ở đó. Sau này Huyền Tông từ đất Thục trở về kinh đô, nhớ lại tình xưa, đã đưa ra mật lệnh cải táng. Khi đào mộ cũ lên, phát hiện chiếc chăn màu tím dùng để cuốn thi thể khi mai táng và cả thi thể đều đã mục nát, duy chỉ có túi thơm là vẫn còn tốt”.

Trừ ác khí, tránh tà uế

Mặc dù túi thơm được thiết kế với kiểu cách khác nhau qua từng thời đại, phương thức đeo và hương liệu bên trong cũng khác nhau, tuy nhiên ý nghĩa thì không có gì khác ngoài công dụng trừ ác khí tránh tà uế.

Trong khu mộ thời Hán được khai quật ở Mã Vương Đôi, ngôi mộ số 1 có 4 túi thơm còn khá nguyên vẹn (Một túi thơm “tín kỳ tú” bằng lụa ở bên cạnh phía Bắc, còn 3 túi kia để trong một chiếc hộp tre vuông ở bên cạnh phía đông). Bốn túi thơm được tìm thấy có chứa hương dược “trừ uế phòng bệnh” bên trong. Một chiếc chứa rễ cỏ mao hương, một chiếc chứa hoa cây hồ tiêu, hai chiếc còn lại chứa cỏ mao hương và hoa mộc lan… Trong hộp tre vuông vẫn tỏa ra mùi cỏ thơm.

Mao hương là một loài thực vật có mùi thơm thuộc họ lúa, sau khi phơi khô thì tỏa hương thơm, có thể dùng để chống mối mọt cho vật liệu may mặc. Hoa cây hồ tiêu dùng làm thuốc Đông y, có công dụng làm ấm và hoạt khí, trừ hàn, giảm đau, sát trùng. Mộc lan thì được miêu tả trong “Bản thảo cương mục” rằng: “Phổi thông ở mũi, mà mạch hoàn dạ dày từ mũi trên đi xuống, não là phủ của nguyên thần, mũi là khiếu của mệnh môn. Trung khí (Đông y chỉ khí trong dạ dày, có tác dụng tiêu hoá thức ăn và dinh dưỡng) của con người không đủ, khí thanh dương không đi lên được thì đầu nghiêng, 9 khiếu bất lợi. Hương Mộc lan cay ấm đi vào phổi có thể trợ giúp khí thanh dương trong dạ dày thăng lên thông với trời, do đó có thể làm ấm bên trong, trị các bệnh về đầu, mặt, mắt, mũi”.

Trong sách “Lý thược biền văn” đời Thanh cũng có viết về chế tác “liệu pháp túi thơm trừ dịch bệnh”, tức là dùng cây khương hoạt, đại hoàng, sài hồ, thương truật, tế tân, ngô thù du, mỗi loại bằng nhau rồi nghiền thành bột mịn, cho vào túi thơm đeo ở trước ngực. Đeo lâu dài có thể phòng ngừa cảm mạo bốn mùa tránh dịch bệnh.

Trong tác phẩm “Hoàng Đế nội kinh” được coi là khởi tổ của Đông y Trung Quốc, có đề cập đến: “Chính khí tồn nội, tà bất khả can, Tà chi sở thấu, kỳ khí tất hư”, câu này có nghĩa là gì? Khi mà chính khí thân thể người cường thịnh thì tà khí không dễ xâm nhập vào cơ thể, cũng sẽ không bị bệnh tật. Sở dĩ tà khí có thể xâm nhập vào cơ thể người thì nhất định là do chính khí đã bị hư nhược rồi. Cho nên bảo vệ chính khí, không để tà khí bên ngoài xâm phạm, cũng là cách mà người xưa dùng để tăng cường khả năng kháng bệnh.

Tuy nhiên, chính khí từ đâu mà đến?

Trong người có chính khí của trời đất, tà khí không dám phạm. 

Văn Thiên Tường, một thi nhân và là thừa tướng triều Nam Tống bị quân Nguyên bắt làm tù binh. Ở trong ngục ông đã viết bài “Chính khí ca”: “Ở đây có bẩy khí, ta có một khí, một địch lại bẩy ta còn lo gì nữa. Huống hạo khí là chính khí của trời đất vậy.” Ý tứ câu này là, mặc dù đối phương có 7 loại khí nhưng là uế khí, chỉ cần dùng 1 loại chính khí này thôi là có thể địch lại với 7 loại khí kia, chẳng có gì phải lo lắng! Hơn nữa khí cương trực to lớn chính là chính khí hào hùng trong trời đất:

“Thiên địa hữu chính khí, tạp nhiên phú lưu hình. Hạ tắc vi hà nhạc, thượng tắc vi nhật tinh. Ư nhân viết hạo nhiên, Bái hồ tắc sương minh” (Trời đất có chính khí, Toả ra cho muôn loài, Là sông núi dưới đất, Là trăng sao trên trời, Đầy rẫy cả vũ trụ). Trên đất có núi sông, không trung có mặt trời, mặt trăng và các vì sao, đều do chính khí hình thành, ở nhân gian thì đó là chính khí cuồn cuộn của con người.

Nếu một người luôn ôm giữ sự thiện lương và bình hoà, thân đầy chính khí thì tà khí sao dám đến gần.

Ngày nay, mỗi khi tết Đoan Ngọ đến, người ở nhiều nơi vẫn giữ phong tục đeo túi thơm, bao thơm, bên trong để rất nhiều thứ như hùng hoàng, huân thảo, ngải diệp. Nhưng những điển cố về túi thơm đã dần bị lãng quên. Mỗi bảo vật tại thế gian đều muốn nói với chúng ta câu chuyện về sự ra đời của chúng, nếu có thể tìm lại được ý nghĩa thực sự về sự tồn tại của bảo vật, ắt hẳn chúng ta sẽ thấy cảm động trước nội hàm của nền văn hóa Thần truyền, cảm ân đấng tạo hóa đã luôn bảo hộ cho chúng ta.

Theo secretchina