Cổ nhân giảng: Đạo đức là quy luật của Trời Đất, bổn phận là quy luật của con người. Con người mà đi ngược lại với quy luật thì tất sẽ gặp họa. Con người có Đạo mới có Đức, vô Đạo thì không có Đức, có Đức mới có phúc, vô Đức thì tất sẽ vô phúc. Bởi vậy, Đạo là vô cùng quan trọng, mà Đạo làm người là không thể trái.

Con dâu và cha mẹ chồng vốn là hai người xa lạ về ở chung một nhà. Nếu như đôi bên không hiểu Đạo thì sẽ gây ra những bất hòa, khiến gia đình ngột ngạt và khó có thể bình yên.

Trong cách đối nhân xử thế của người xưa, Đạo xử thế giữa cha mẹ chồng và con dâu cũng đòi hỏi tuân theo phép tắc, lễ nghi và luân thường đạo lý cơ bản. Trong đó, cha mẹ chồng làm trọn đạo của cha mẹ chồng, con dâu làm trọn đạo của người con. Như thế gia đình sẽ luôn hòa thuận, có trên có dưới và gia đình mới được hưng thịnh.

1. Mẹ chồng là người đi trước, con dâu là người đến sau, cho nên mẹ chồng phải bảo ban con dâu, hướng dẫn chỉ bảo con dâu, không được làm khó cho con dâu.

2. Mẹ chồng nếu như là người không hiểu Đạo, không trước tiên bao dung và ban ơn cho con dâu mà lại thường nói đến khuyết điểm, lấy quyền áp đặt con dâu thì sao có thể sinh ra hảo cảm giữa hai người được?

3. Mẹ chồng phải nên coi con dâu như con gái của mình để đối đãi. Nếu như không làm được như vậy thì người con dâu cũng khó lòng coi mẹ chồng như mẹ đẻ và như thế sẽ tạo thành tuần hoàn “ác tính”, rất khó để gia đình hòa thuận vui vẻ.

4. Khi nói chuyện, mẹ chồng nên khích lệ con dâu, đề cao sở trường của con dâu, cảm kích sự giáo dục của cha mẹ đẻ của con dâu. Khi con dâu có sai trái, mẹ chồng trước tiên phải khoan dung độ lượng, sau là hướng dẫn chỉ bảo, đừng tranh cãi, trách mắng thì con dâu tự nhiên cũng sẽ cảm ơn và báo ơn.

5. Người con dâu, là người vợ phải hiểu được rằng, yêu chồng phải yêu thương cả cha mẹ chồng. Không có cha mẹ chồng thì sao có được người chồng của mình bây giờ?

6. Làm con dâu phải coi cha mẹ chồng chính là cha mẹ đẻ của mình mà hiếu kính. Cổ nhân có câu, đời người có hai bên cha mẹ, cho nên đối với hai bên cha mẹ đều phải đối xử công bằng.

7. Cha mẹ chồng trong gia đình giống như phần rễ của cây. Muốn cây xanh lá, hoa thơm, quả ngọt thì nhất định phải đối xử tốt với rễ cây, phải chăm sóc, bón phân, tưới nước và làm đất. Vì vậy, làm con dâu trong nhà phải hiếu thảo, đối xử tốt, phụng dưỡng tốt cha mẹ chồng thì gia đình mới vững chãi, hưng thịnh.

8. Làm con dâu phải hiểu Đạo lý rằng, cha mẹ chồng chính là phúc báo của gia đình. Đừng bao giờ oán giận người già, không hiếu thảo với người già, bởi vì không đối xử tốt, không hiếu thảo với cha mẹ chồng cũng tương đương với việc mình không cần phúc báo và thực sự cũng sẽ không có được phúc báo.

9. Người con dâu bất hiếu với cha mẹ chồng thì sau này cũng sẽ bị con cái đối xử lại như vậy, đây chính là quả báo mà cổ nhân thường nói đến “sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đấy.”

10. Có câu rằng, gia đình hòa thuận thì mọi sự hưng, cho nên nếu muốn “chồng sang, con hiền đức” thì phải hiếu kính cha mẹ chồng, như thế mới có thể phát tài, nếu không tất cả sẽ không thể được bền vững lâu dài.

Dù trong bất kỳ xã hội nào, một người mẹ chồng hiểu Đạo, bao dung, lương thiện luôn khiến gia đình, xã hội tôn kính. Một người con dâu hiếu đạo, một lòng một dạ chăm sóc cha mẹ, chồng con luôn được đề cao và ca ngợi. Đó là bởi vì lòng người luôn hướng đến Đạo.

Bị mẹ chồng đối xử không tốt, người con dâu xưa làm gì?

Cổ ngữ có câu: “Bách thiện hiếu vi tiên” (Tạm dịch: Trong trăm cái thiện thì hiếu đứng đầu). Hiếu đạo là tinh hoa văn hóa truyền thống của nhân loại, ảnh hưởng đến con người thế gian suốt mấy ngàn năm qua. Hiếu là quy phạm văn hóa, luân lý đạo đức gắn kết các thành viên trong gia đình, xã hội và đất nước.

Thời xưa con người phi thường coi trọng hiếu đạo, ai ai đều xem trọng và tôn kính những người hiếu thảo. Ngoài con trai, con gái hiếu thảo với cha mẹ đẻ ra thì con dâu hiếu thuận với cha mẹ chồng cũng được trời, đất và mọi người kính trọng.

Thời cổ đại có lưu truyền một câu chuyện cảm động lòng người như thế này:

Khương Thi là người vùng Quảng Hán, Tứ Xuyên, thời đại Đông Hán. Đến tuổi trưởng thành, Khương Thi lấy cô gái tên là Bàng Tam Xuân làm vợ. Vợ chồng Khương Thi và Bàng Tam Xuân phụng dưỡng mẹ vô cùng hiếu thuận.

Mẹ chồng Tam Xuân rất thích uống nước sông, vì thế cô thường đi đến một nhánh sông lớn cách nhà hơn bảy dặm để lấy nước về nấu cho mẹ chồng uống. Mẹ chồng cô cũng rất thích ăn cá chép. Vì vậy, hai vợ chồng Khương Thi thường đi bắt cá chép về hầm cho mẹ ăn.

Về sau này bởi vì người cô chồng gây xích mích nên giữa hai vợ chồng Khương Thi và Tam Xuân phát sinh sự hiểu lầm lẫn nhau. Khương Thi nghe lời mẹ đuổi vợ về nhà mẹ đẻ của cô. Mặc dù Tam Xuân bị đuổi về nhà mẹ đẻ nhưng trong lòng cô không hề oán giận hay trách móc chồng và mẹ chồng.

Hàng ngày Tam Xuân sống trong gian nhà tranh nhỏ, không quản ngày đêm dệt vải rồi mang bán lấy tiền. Bán được tiền rồi, cô lại mua gạo, mua thịt rồi mang đến biếu mẹ chồng.

Con trai của vợ chồng Khương Thi lúc ấy mới bảy tuổi tên là Khương An An nhưng rất hiểu chuyện. Cậu bé sợ rằng mẹ mình ở nhà tranh sẽ không đủ gạo để ăn nên mỗi ngày đi học cậu bé lại lấy một ít gạo cho vào túi và để ở một chỗ trong ngôi miếu thờ Thổ Địa trên đường. Sau một thời gian tích trữ được một túi gạo lớn, Khương An mang số gạo đó đến thăm người mẹ đang bị oan khuất của mình.

Lúc Khương An mang gạo đến cho mẹ, Tam Xuân bốc một nắm gạo lên xem thì phát hiện gạo có màu sắc, kích cỡ khác nhau. Cô lập tức hỏi con trai mình: “Khương An, số gạo này là con lấy từ đâu?”

Cậu bé thấy mẹ hỏi vậy đành phải bẩm báo thật. Tam Xuân nghe con trai kể xong, liền ôm lấy cậu bé vào lòng và hai mẹ con họ cùng khóc nức nở một hồi.

mẹ chồng
(Hình minh họa: Qua pinters)

Về sau, chồng và mẹ chồng của Tam Xuân hiểu ra cô bị oan khuất nên đã đón cô về nhà. Ngay sau ngày cô trở về nhà chồng, trong vườn nhà họ bỗng nhiên có một dòng suối phun trào ra. Hương vị của nguồn nước cũng khác với nước sông.

Hơn nữa, thỉnh thoảng lại có một, hai con cá chép từ trong nguồn nước ấy nhảy ra. Từ đó về sau, Tam Xuân dùng nguồn nước này để nấu cho mẹ chồng uống mà không cần phải đi ra bờ sông xa hơn bảy dặm để lấy nước như trước đây nữa.

Sau này, quân khởi nghĩa Xích Mi thời Đông Hán khi đi ngang qua nơi đây, người thủ lĩnh biết được chuyện Tam Xuân hết lòng hiếu thảo phụng dưỡng mẹ chồng nên đã lập tức xuống ngựa, truyền lệnh ba quân lặng lẽ hành quân, tránh quấy nhiễu đến sự bình yên của nơi đây.

Cũng từ đó trở đi, mỗi lần quan lại đi qua nơi đây đều thi hành lễ, quan văn thì hạ kiệu, quan võ thì xuống ngựa, dần dần trở thành truyền thống. Lòng hiếu thảo của Tam Xuân đối với mẹ chồng thật sự làm cảm động trời đất và lòng người.

An Hòa (t/h)