“Anh Chị Bồn Kèn” là một danh từ để gọi bọn du côn ở xóm Bồn Kèn, phần nhiều là những tay dọn bàn, nấu ăn cho các quan Lang sa, thường hay cậy thế thần của chủ, hống hách hung hăng, và hay gây ăn thua đánh lộn hoặc đâm chém với du côn xóm khác như “Xóm Dọn Bàn” (Paul Bert cũ), “Xóm Khánh Hội” (Anh chị Bến Tàu), hoặc du côn “Mặt Má Hồng”(đường Mac Mahon) hay “Lăng Xi Bê”(đường Blanscubé).
Thuở ấy dân anh chị chưa có “chó lửa”(súng lục, súng sáu) như bây giờ. Họ nói chuyện với nhau chỉ bằng tay sắt, củ chì, roi gân bò, hoặc dao tu, miễn là đủ ăn thẹo trên mặt là cùng… nhưng họ có thói ưa xăm mình và tâng bốc nhau bằng danh từ “đại ca” như trong truyện “Thuỷ Hử” hay trong các truyện Tàu khác. Có người xăm tích “Võ Tòng đả hổ”, người xăm câu thơ răn đời: “Hoạn nạn bất ly chơn quân tử, Lâm nguy bất cứu mạc yêng hùng”. Có kẻ xăm bùa chú, bùa “gồng”, người xăm hình ý trung nhơn hoặc con “đầm” loã thể”…Giữa ngực xăm một con rồng đoanh… đặc biệt nhứt là sau lưng, trên đề: “République francaise” dưới thêm câu: “Viva la France” và mấy con số “1914 – 1918”, hỏi ra anh là một lính “chào mào” từng dự trận châu Âu đại chiến.
Danh từ “du côn” có là do tích bọn này, nguyên là bọn du thủ du thực, tay thường cầm một “đoản côn” (côn vắn) bằng sắt, đồng hay gỗ trắc để hộ thân, về sau vì có lệnh cò bót cho bắt những kẻ tay cầm gậy hèo nên họ đổi lại, để dễ chạy án, cầm một ống tiêu bằng đồng để khi hữu sự dùng làm binh khí hoặc khi nào cao hứng chè chén no say thì mượn đó thổi hơi tiêu phù trầm….