Lịch sử 100 năm Túc Cầu Việt Nam

Dân tộc Việt Nam xưa nay vốn có truyền thống thượng võ, nên rất coi trọng việc rèn luyện cơ thể hằng ngày như là phương tiện để mà phát triển quân sự. Đá cầu là một trong những môn chơi rất được mọi tầng lớp xã hội các thời Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn… ưa thích và được coi đây là xuất xứ của môn Túc Cầu Việt Nam, chính thức thành hình hơn 100 năm qua.

Doi Tuyen Tuc Cau VNCH

Theo tài liệu, thì đội túc cầu đầu tiên của nước ta ra đời vào năm 1906 tại Gia Định. Hai mươi năm chiến tranh (1955-1975) với bao nhiêu nỗi buồn bom đạn nhưng cũng là thời kỳ huy hoàng nhất của nền túc cầu Nam Việt Nam, chẳng những trong khu vực Đông Nam Á, mà tiếng thơm còn bay bổng tận làng bóng quốc tế với những tên tuổi Phạm Văn Rạng, Phạm Văn Mỹ, Đỗ Thới Vinh, Phạm Huỳnh Tam Lang, Lâm Hồng Châu…

Ở Miền Bắc xã nghĩa, từ năm 1964 các giải Túc Cầu thường diễn ra trên các sân vận động Hải Dương, Thái Bình, Bắc Giang… mà không tổ chức tại Hà Nội, vì sợ máy bay Mỹ oanh tạc. Năm 1965, đội tuyển Bắc Việt tham dự Giải Túc Cầu Hữu Nghị được tổ chức tại sân vận động Bình Nhưỡng (Bắc Hàn) gồm các đội banh Trung Cộng, Nam Dương, Cam Bốt, Guinee, Bắc Cao. Đội Bắc Việt đứng hạng ba. Năm 1966, Liên Sô đá giao hữu và thua Bắc Việt 1-0. Cũng năm 1966, trong giải Ganefo tổ chức tại Nam Vang gồm 10 nước tham gia, đội Bắc Việt lãnh huy chương đồng. Nói chung, trước năm 1975, Bắc Việt cũng có một đội Túc Cầu, gồm Nguyễn Văn Vĩnh (thủ môn) và các cầu thủ Hiếu, Thêm, Hiền, Hiển, Long, Vinh, Thọ, Ngọc, Phàn, Chinh… tuy nói là tham dự nhiều nơi nhưng chẳng đem về cho quê mẹ một chiến thắng nào đáng kể, vì lúc đó Đảng tại Bắc Bộ Phủ chỉ trăm phương ngàn kế, để mà làm sao cưỡng chiếm cho được miền Nam, nên đâu còn sức lo cho thể thao, Túc Cầu… những món hàng được coi là xa xỉ, vô ích trong thế giới các nước xã hội chủ nghĩa.

Đội Tuyển Túc Cầu Miền Nam Việt Nam

Năm 1959, lần đầu tiên đội tuyển Túc Cầu Việt Nam Cộng Hòa đã đoạt được huy chương Vàng tại Đông Nam Á Vận Hội (không có sự tham dự của Nam Dương và Phi Luật Tân). Kỳ đó, phái đoàn thể thao Nam Việt Nam tham dự rất nhiều môn thi đấu như quyền Anh, bơi lội, bóng bàn, bóng chuyền, bóng rổ, xe đạp, điền kinh và Túc Cầu, được tổ chức tại Thái Lan. Về đội tuyển Việt Nam Cộng Hòa có Phạm Văn Rạng (thủ môn), Nguyễn Văn Cụt, Phạm Văn Hiếu, Nguyễn Ngọc Thanh, Lê Văn Hổ (Myo), Nguyễn Văn Nhung, Đỗ Thới Vinh, Há, Đỗ Quang Thách, Nguyễn Văn Tư. Đội tuyển Việt Nam vào chung kết hạ đội Thái Lan 3-1 và được chính tay Hoàng Thái Tử Xiêm trao chiếc cúp vàng, tại sân vận động.

Tam Lang 200x300

Phạm Huỳnh Tam Lang nâng cao cúp Vàng Merdeka, tổ chức tại Mã Lai Á năm 1966

Trước đó ở miền Nam, có trung phong đội AJS (Association de la Jeunesse Sporttive), tức là Đội Cảnh Sát Quốc Gia sau này, cầu thủ Phạm Văn Mỹ, nổi danh trong làng bóng Đông Nam Á là “Cọp Đồng Nai” qua kỹ thuật chơi bóng, cú sút trời giáng, tốc độ nước rút phi thường. Bên cạnh còn có Phạm Văn Rạng, từng được tạp chí thể thao hàng đầu của Pháp là tờ ‘France Football’ vinh danh là thủ môn số 1 của nền Túc Cầu Châu Á, khi đội tuyển Việt Nam Cộng Hòa đã thắng đội banh Do Thái 2-0, trong khuôn khổ vòng loại, để được tham dự Thế Vận Hội năm 1964. Trận đấu diễn ra trên sân vận động Cộng Hoà, do công của Ngôn và Quang. Nhờ những thành tích trên, nên đội tuyển túc cầu Việt Nam Cộng Hòa đã có 4 cầu thủ là Phạm Văn Rạng, Nguyễn Ngọc Thanh, Đỗ Thới Vinh, và Nguyễn Văn Ngôn, được vào đội tuyển Châu Á, do Thiết túc cầu đại vương Hương Cảng là Lý Huệ Đường làm huấn luyện viên và Peter Velappan phụ tá.

Năm 1966, đội tuyển Việt Nam Cộng Hòa lại lập thêm kỳ tích khi đoạt cúp vàng Merdeka, tổ chức tại Mã Lai Á. Tham dự lúc đó gồm có Lâm Hồng Châu (thủ môn), Lại Văn Ngôn, Phạm Văn Lắm, Văn Có, Phạm Huỳnh Tam Lang, Nguyễn Văn Chiêu, Nguyễn Vinh Quang, Nguyễn Văn Ngôn, Dương Văn Thà, Đỗ Thới Vinh, Nguyễn Văn Mộng, trên sân cỏ, đội banh Việt Nam đã liên tiếp hạ Tân Gia Ba (5-0), Nhật (3-0), Mã Lai Á (5-2), Đài Loan (6-1) và thua Ấn Độ (0-1). Cuối cùng Việt Nam vào chung kết với Miến Điện. Trong trận này, đối phương tấn công Việt Nam tới tấp và ba lần banh vào khung thành của thủ môn Lâm Hồng Châu nhưng đều bị gạt ra ngoài, nhờ tài nghệ phi thường của cặp trung phong Văn Có – Tam Lang và thủ môn Châu. Đến phút 68, Tam Lang cướp được banh dẫn thẳng vào tuyến địch và sút vào cầu môn Miến, đem về chiếc cúp vàng vô địch cho quê hương.

Tại Đông Nam Á Vận Hội kỳ IV năm 1967, đội Túc Cầu Việt Nam Cộng Hòa lại đoạt huy chương Bạc khi thắng Lào 5-0, Thái Lan 5-0 và thua Miến Điện 1-2 khi vào chung kết. Trong trận đó, hội tuyển Việt Nam có Lâm Hồng Châu (thủ môn), Hồ Thanh Chinh, Lại Văn Ngôn, Nguyễn Văn Mộng, Phạm Huỳnh Tam Lang, Nguyễn Vinh Quang, Dương Văn Thà, Nguyễn Thái Hưng, Đỗ Thới Vinh, Võ Bá Hùng, Lê Văn Đức, Nguyễn Văn Thuận, Hồ Thanh Cang, Quang Kim Phụng, Nguyễn Văn Chiêu, Cù Sinh, Nguyễn Văn Ngôn, Trương Văn Tư. Năm 1973, tại Đông Nam Á Vận Hội ở Tân Gia Ba, đội tuyển Việt Nam lại giành Huy chương bạc, sau khi vào chung kết lại thua Miến Điện khi trận đấu chỉ còn 8 phút thì kết thúc với tỷ số 3-2.

Trong nỗi thăng trầm của túc cầu Việt Nam Cộng Hòa từ 1955-1975, chỉ có một điều đáng tiếc được báo chí thời đó ghi nhận là sự xung đột giữa trung phong Ứng của đội Cảnh Sát Quốc Gia và tiền vệ Tống Mành của đội Tổng Tham Mưu; khi tranh giành chức vô địch trên sân cỏ, Mành chẹn gãy chân Ứng. Tuy nhiên đó chỉ là chuyện rất thường trên sân cỏ. Điều quan trọng nhất là hầu như tất cả các cầu thủ của Việt Nam Cộng Hòa, hiện còn sống tại Sài Gòn khi được báo chí thành Hồ phỏng vấn đều tỏ ra xúc động và luyến tiếc thời vàng son của nền Túc Cầu miền Nam, giờ đây gần như tuyệt vọng trước tệ nạn tham nhũng và cá độ của cái gọi là đội tuyển quốc gia khi mang chân tới đá tại các sân cỏ xứ người, mà tỷ số thắng thua đã được định trước bằng tiền thưởng.

Pham Van Rang 251x300

Phạm Văn Rạng, thủ môn đội tuyển Việt Nam Cộng Hòa 1959

Dương Văn Thà, một cầu thủ lừng danh là ‘thần mã’ của đội tuyển miền Nam từ 1967-1974, cho biết trước năm 1975 là thời kỳ cực thịnh của Túc Cầu Việt Nam, qua nghệ thuật nhồi bóng cùng với tinh thần kỷ luật, tự giác và sự luyện tập. Còn Lê Văn Tâm (cha Lê Huỳnh Đức, trung phong số 1 của Việt Nam ngày nay), nhắc lại trận đấu giữa Việt Nam và Nam Hàn trong giải King’s cup ở Thái Lan năm 1970, Việt Nam thắng nước này 1-0, qua cú sút phạt của Võ Thành Sơn và Lê Văn Tâm đội đầu.

Thế mà ngày nay, đội bóng của Việt Nam càng ngày càng sa sút, trong khi đó Nam Hàn chẳng những lừng lẫy tại Á Châu mà còn được chen chân vào các kỳ Thế Vận Hội, điển hình là kỳ World Cup 2006 tại Đức sắp tới. Riêng Đỗ Cầu cho biết, cầu thủ Việt Nam Cộng Hòa khi dự các cuộc tranh giải ở các quốc gia bạn, đều được đồng bào địa phương, thương mến, trân trọng vì bản chất của cầu thủ Việt Nam hiền lành, đứng đắn, biết tôn trọng kỷ luật trên sân cỏ cũng như đã giao đấu rất dũng mãnh, nhiệt tình để giành vinh quang danh dự về cho màu cờ, sắc áo của dân tộc. Sau năm 1975, các cựu cầu thủ miền Nam như Phạm Huỳnh Tam Lang (1*), Quảng Trọng Hùng, Cao Cường (2**), Dương Văn Thà… làm huấn luyện viên thể thao, Nguyễn Kim Hằng bán cà phê, Tư Lê lái taxi, Nguyễn Văn Mộng, Đinh Công Hoàng… thì ẩn dật…

Viết chuyện người khiến hồn thêm bồi hồi khi nghĩ tới quê hương và những ngày xa cũ, nhất là Phan Thiết quê tôi, vùng đất đam mê đá banh như là món ăn tinh thần không sao thiếu được. Trước khi Việt Cộng cưỡng chiếm được Việt Nam Cộng Hòa ngày 30/04/1975, Bình Thuận là một trong những tỉnh có phong trào thể thao rất mạnh, mà tiêu biểu là môn túc cầu. Từ năm 1962-1968, hàng năm Bình Thuận đều tham gia giải Liên quân khu, gồm 11 đội bóng của các tỉnh Quảng Ngãi, Pleiku, Kontum, Darlac, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Tuyên Đức và hầu như chức vô địch trong những lần tổ chức ấy, khó có đội nào hơn được Bình Thuận.

Năm 1971, tại giải vô địch toàn miền Nam, với sự tham dự của 43 đội từ các tỉnh thị và 4 quân khu, đội bóng Bình Thuận, đã đoạt chức vô địch Túc Cầu toàn quốc, sau khi hạ đội Mỹ Tho với tỷ số 2-1 tại sân vận động Cộng Hoà. Ngoài ra đội Bình Thuận còn đá giao hữu với các đội chuyên nghiệp lúc đó tại Sài Gòn như Quan Thuế, Không Quân, Hải Quân và Cảng. Các cầu thủ Tam Lang, Dương Văn Thà, Nguyễn Văn Ngôn, Võ Thành Sơn, Cù Sinh, Phạm văn Rạng… măc dù chơi hay, nổi tiếng và chuyên nghiệp nhưng khi đụng với Phan Thiết, cũng rất e dè và thán phục.

Đó cũng là do công dìu dắt của ông bầu Tăng Khánh (nhà sách Vui Vui), và các ông Quản Đầu, Ba Hoàng (nước mắm Vĩnh Hương), Khánh Cao. Nhưng đặc biệt nhất phải kể tới công của ông Bầu Ba Toại đã chiêu dụ được nhiều cầu thủ danh tiếng ở tỉnh ngoài về đá cho Phan Thiết như Đỗ Thới Vinh, từng đá cho các đội Quân Cụ, Quan Thuế, Tổng Tham Mưu tại Sài Gòn. Vinh với chiếc đầu hói, sống mũi dọc dừa, đôi mắt sâu sâu và nước da ngâm đen, đã tạo cho đồng đội nhiều cơ may dứt điểm khung thành địch. Vinh đang ở trong đội tuyển miền Nam thì được chọn vào đội tuyển Quốc Gia tham dự giải Đông Nam Á Vận Hội.

Cầu thủ Trần Ta, em ruột cầu thủ Trần Néo, sinh tại Phú Trinh, Phan Thiết, năm 18 tuổi là cầu thủ của đội trường Trung Học Phan Bội Châu, giúp đội đá bại trường Trung Học Võ Tánh, Nha Trang, đoạt chức vô địch Túc Cầu cấp tỉnh miền Trung. Sau Trần Ta về đầu quân cho đội Thương Khẩu của Bầu Quyền. Rồi được tuyển chọn vào Đội Túc Cầu Thanh Thiếu Niên Miền Nam, tham dự nhiều nước Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Mã Lai Á và Nam Dương. Từ năm 1961 trở về sau, tài năng của cầu thủ Trần Ta người Phan Thiết đang lên vùn vụt thì đột nhiên anh bị tử nạn năm 1966 trên đường từ Sài Gòn đi Đà Lạt. Người ta đã tìm thấy xác Ta và chiếc xe gắn máy hiệu Sprint dưới lũng sâu của đèo Blao, Quốc Lộ 20.

Tuy nhiên cũng có nguồn tin nói là Trần Ta bị Việt Cộng chận đường giết rồi xô xuống đèo làm như là một tai nạn giao thông, câu chuyện xì xào một thời gian rất lâu trong giới mộ điệu thể thao tại Phan Thiết. Hai anh em Trần Mai và Trần Đáng cũng được Bầu Toại chiêu mộ từ Huế vào, đá cho đội banh Phan Thiết. Nhiều năm liền, cả hai rất được hâm mộ vì đều là trụ cột làm bàn, sát bóng mạnh, lừa giỏi, đưa đội bóng Bình Thuận đoạt được nhiều giải tại miền Trung và toàn quốc. Sau năm 1957, hai anh vì lý do gia cảnh nên trở về Huế và gia nhập đội tuyển miền Trung từ giai đoạn 1961-1963.

Tóm lại, ngoài các cầu thủ trên, thành phần đội túc cầu Bình Thuận-Phan Thiết gồm có: Thủ môn Đại, Du (thập niên 50,60). Hậu vệ Xây, Bụt (sau bị hư một mắt), Lâu (được mệnh danh là trụ đồng), Ngọ (búa). Hàng tiền vệ có Thơm, Néo (anh ruột Trần Ta), Phối, Nhiều, Minh. Tiền đạo Mỉn (chết trong tù cải tạo VC năm 1975), Phê, Tùng (năm 1970 được tuyển vào Đội Thanh Thiếu Niên Miền Nam, tham dự các giải Đông Nam Á), Quang. Hàng Trung phong có Hoan dù chỉ thuận chân mặt nhưng là một trong những kiện tướng làm bàn hàng đầu của Đội.

Phan Thiết còn có Huyền Vũ, là một ký giả thể thao nổi tiếng qua những bài tường thuật cũng như bình luận các trận cầu quốc tế tại sân cỏ, trên làn sóng phát thanh Sài Gòn, được phóng đi cùng khắp. Do trên nhiều người không có thì giờ vì bận rộn sinh kế, công vụ, chỉ cần mở máy thu thanh cũng đủ cảm thấy như mình đang tham dự trận đá một cách thích thú. Giọng tường thuật của ông rất truyền cảm, thu hút được nhiều người nghe cũng như ái mộ.

Ông cũng là ký giả của nhiều tờ báo, viết nhiều bài tường thuật rất có giá trị. Theo Đinh Văn Ngọc, vì ông với bản tính ăn ngay nói thật của người Phan Thiết, thấy sao nói vậy, không bưng bợ hay phe cánh cá nhân nên va chạm nhiều người, nhất là giới thể thao và đồng nghiệp. Ông tên thật là Nguyễn Ngọc Nhung, sinh tại Phú Trinh Phan Thiết, chủ bút tạp chí thể thao hàng tuần và báo Nguồn Sống trước năm 1975… Ngoài ra cũng kể thêm một ký giả thể thao khác của Bình Thuận là Thanh Điều kiêm Trọng tài các trận túc cầu giao hữu trên sân cỏ Phan Thiết Huyền Vũ vừa qua đời tại Hoa Kỳ.

Trước năm 1975, những ông bầu túc cầu nổi tiếng của Phan Thiết như Tăng Khánh, Ba Hoàng, Khánh Cao, Ba Toại… là những nhà mạnh thường quân rất quan tâm tới đội tuyển của tỉnh nhà. Tiệm cà phê Phú Ngữ là nơi thường trực tập trung các cầu thủ cũng như giới hâm mộ, mỗi buổi sáng để bàn chuyện thể thao. Trong những khi có trận đấu, trước khi đội ra sân, các cầu thủ tập trung tại Phú Ngữ, vừa uống cà phê, vừa lắng nghe Huấn Luyện Viên Nguyễn Văn Quới, nguời Hóc Môn, Gia Định, đã từng đá cho các đội AJS, Cảnh Sát Quốc Gia và Đội Tuyển Miền Nam. Ông Quới được Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa chọn về làm huấn luyện viên trưởng cho đội tuyển Túc Cầu Phan Thiết, nhờ vậy mới đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.

Vậy mà cũng bốn chục năm rồi đó, nhưng không làm sao quên được những tháng Sáu mùa hè, ngồi trong lớp học hay đi dọc theo con đường Nguyễn Hoàng, bất chợt nhìn thấy hoa Phượng chúm chím nở hoa, là lòng lại bồi hồi xúc động và vui tới rớm lệ khi giờ cuối cùng đã hết, học trò lớn nhỏ ai cũng nhấp nhỏm chờ lên tàu để trở về quê cũ, có thầy me đợi em trông, trên đường làng huyết lệ nở thành bông và vườn rộng nhiều trái cây ngon ngọt, như Xuân Tâm đã viết, mà bọn học trò nhỏ ngày xưa ai cũng thuộc.

Nhưng làm sao quên được những niềm vui ấu thơ, những ngày theo bạn bè đá banh hay leo tường vào sân vận động để mà xem chui những trận giao đấu banh giữa các đội học sinh Trung Học Phan Bội Châu với đội tuyển Phan Thiết và các đội banh danh tiếng tại Sài Gòn.

Nhật Trường Trần Thiện Thanh trước khi trở thành ca nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam, từng là thủ môn của đội Túc Cầu Trung Học Phan Bội Châu – Phan Thiết.

Chú thích:

(1*) Cầu Thủ Phạm Huỳnh Tam Lang, thủ quân của đội tuyển VN (hình chụp ở trên) cũng có một thời là chồng của Nữ Nghệ Sĩ Bạch Tuyết.

(2**) Xin đính chánh với người viết là 2 Cầu thủ được nêu tên ở trên là Quảng Trọng Hùng và Cao Cường không phải của miền Nam mà là của miền Bắc thuộc Câu Lạc Bộ Thể Dục Thể Thao Quân Đội còn gọi tên khác là Thể Công của Hà Nội