Có phải em mang trên áo bay,
Hai phần gió thổi một phần mây.
Hay là em gói mây trong áo,
Rồi thở cho làn áo trắng bay.
Nguyên Sa

Áo dài là trang phục truyền thống dành cho cả nam lẫn nữ, được chính thức định hình là áo tứ thân bởi chiếu của Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765). Từ áo tứ thân nguyên thủy này mà ra đời áo dài Huế và áo tứ thân màu sắc của miền Bắc và áo dài hiện nay được coi là quốc phục của mọi người Việt.

Nguồn gốc áo dài ngày nay

Từ giữa thế kỷ XVIII, lịch sử trang phục của người Việt mới rõ ràng, được định hình bởi sắc chỉ năm 1744 qui định y phục trong Nam bởi chúa Nguyễn Võ Vương (1739-1765). Sắc chỉ này cho biết vào thời kỳ trước, người Việt :” thường hay bắt chước lối ăn mặc của người phương Bắc, cũng gọi là người Khách (Tàu) “. Vì lẽ đó, sử gia Lê Quý Đôn viết :” để gìn giữ văn hóa riêng… mà lấy thể chế áo mũ trong Tam Tài Đồ Hội làm kiểu mà tạo ra áo dài cho toàn thể dân chúng Đàng Trong theo đó thi hành ” (Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục). Sắc chỉ của chúa Nguyễn qui định y phục như sau :” Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay rộng tiện khi làm việc thì được phép ” ( đai Nam Thực Lục). Có nghĩa là phụ nữ bỏ váy mặc quần, áo thì cài khuy, bỏ thắt vạt.

Kiểu áo dài cho đàn bà do chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt định và sáng chế là áo 5 thân cổ đứng cài khuy, che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có 2 thân nổi sống (vị chi là 4) tương trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ 5 tượng trưng cho người mặc áo (gọi lầm áo ngũ thân). Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm và khép kín nhờ 5 chiếc khuy (bằng vải tết lại) tượng trưng cho ngũ thường :nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (1) . Danh từ áo dài và áo tứ thân xuất hiện từ đó.

Áo dài năm nút hở bâu,
để xem người nghĩa làm dâu thế nào?
Áo đen năm nút viền bâu,
Bạn về xứ bạn biết đâu mà tìm.

Thời Minh Mạng, nhà vua ra sắc chỉ thống nhất y phục trên toàn quốc: Các phi tần, người hầu kẻ hạ đều mặc áo dài ngay khi vừa bước chân khỏi cấm cung. Dân gian phải mặc quần, cấm váy. Riêng với người lớn, áo dài trở thành trang phục bắt buộc khi ra đường. Sắc chỉ này tạo nên hình ảnh đặc trưng của đường phố Huế ngày nay với các bà mặc áo dài nối thân (để dễ thay thế khi sờn mòn vì lao động) gánh bún bò, bán cơm hến, bánh canh trên đường phố. Còn người dân miền Bắc thì đặt ca dao chống sắc chỉ này :

Chiếu vua mồng tám tháng ba,
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Nếu đi thì lấy quần chồng sao đang.
Có quần ra quán bán hàng,
Không quần ra đứng đầu làng trông quan.
đến thời vua Minh Mạng, từ áo dài được định hình bởi chúa Nguyễn Phúc Khoát xuất hiện hai kiểu áo dài điển hình là áo tứ thân ở miền Bắc và áo dài Huế lan tỏa từ miền Trung xuống đến đồng bằng Cửu Long.

Áo tứ thân

Áo tứ thân trang phục hàng ngày của phụ nữ miền Bắc là biến thể của áo tứ thân do chúa Nguyễn sáng tạo và định hình. Nhưng còn chịu ảnh hưởng trang phục đời Lê nên áo tứ thân còn giữ lại vài dấu vết áo giao lãnh với hình ảnh vạt dài thu hẹp lại, khi mặc thì xỏ hai tay vào, không có khuy, cột hai tà áo trước với nhau rồi thả xuống (áo buông vạt) hoặc buộc hai vạt ấy vào nhau (áo buộc vạt) hoặc buộc vạt ra sau lưng. Bên trong mặc yếm cổ xây cho kín đáo.

Nguồn gốc của Áo dài Việt Nam (phần 1)

Áo tứ thân dài từ cổ buông xuống dưới đầu gối chừng 20cm. Áo có hai vạt trước và sau. Vạt trước có 2 tà tách riêng nhau theo chiều dài, Phần lưng áo gồm hai mảnh ghép lại. Không có khuy cài, 2 tay áo để xỏ vào khi mặc. Bên trong có áo yếm mặc trên váy che ngực làm bằng một mảnh vải hình thang, hình vuông có 2 cái dải thắt vào cổ và lưng, một góc cắt lẹm đi rồi đính 2 dải vải buộc vào sau gáy. Hai góc trái và phải cũng đính 2 dải vải gọi là dải yếm, dài đủ để buộc ra sau lưng. ngoài yếm là áo cánh mỏng, tết ra ngoài một chiếc dây lưng xanh giữ nhẹ giữa áo cánh và váy.

Lúc lao động thì mặc áo tứ thân màu nâu hay đen với váy nơm bằng vải sồi. Ngày hội hè đình đám, thì mặc áo tứ thân vải the mỏng, nhiễu hay lụa, phủ bên ngoài yếm thắm hay bông đào, váy lụa, váy lĩnh, thắt lưng điều, xanh hoa lý…. Hai tà trước bụng thả xuống, phía lưng 2 mảnh liền với nhau (can tà). Nếu áo tứ thân thêm một tà nữa cho đẹp và sang hơn thì gọi là áo ngũ thân. Nếu muốn phô trương giàu sang thì thêm nhiều tà, nhiều màu chồng lên nhau gọi là ” áo mớ ba mớ bảy “. Áo tứ thân kết hợp với nón quai thao (Bắc) nón ba tầm cho phái nữ và khăn đóng cho phái nam. Kết hợp với áo tứ thân thì luôn luôn phải có yếm, khăn mỏ quạ, hoặc nón quai thao. Hai vạt trước vắt chéo được giữ lại bằng cái thắt lưng quanh bụng.

Áo tứ thân của miền Bắc được thay thế dần dần từ thành thị đến thôn quê bởi áo dài Huế. Hiện nay áo dài tứ thân chỉ còn vai trò trình diễn trong dịp lễ hội truyền thống.

Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Lúc lao động thì mắc áo cánh ngắn, áo cộc vải nâu, cổ tròn, viền nhỏm tà mở, yếm bên trong.
Phụ nữ miền Nam thường mặc áo bà ba. Có việc, mặc áo dài phủ lên chiếc quần lĩnh đen.

Áo dài Huế

Áo dài Huế cho cả nam lẫn nữ là sáng tạo của chúa Nguyễn Võ Vương biểu trưng cho một trong những sắc thái văn hóa cung đình Huế (2). Từ giữa thế kỷ XVIII, chiếc áo dài xứ Huế làm mẫu mực cho áo dài trên toàn quốc và là nguồn gốc áo dài truyền thống hiện nay của Việt Nam trong các nghi lễ long trọng, trong các cuộc thi hoa hậu quốc tế….

Ngày ấy, áo dài Huế có đến 5 tà (sau này thành áo tứ thân – 4 tà) : mỗi thân trước và sau đều có 2 tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo; tà thứ 5 ở bên phải, trong thân trước.  Tay  áo may nối dưới khuỷu tay (vì khổ rộng của vải chừng 40cm); cổ áo cao khoảng 2-3cm cùng tay và thân áo trên ôm sát người . Tà áo được may rộng ra từ sườn đến gấu và không chiết eo, dài đến đầu gối. Gấu áo thường võng, vạt rộng đến 80cm. Về quần mặc cùng áo dài thường chọn màu trắng. Người trong hoàng tộc và các gia đình giàu có còn may quần chít ba (có 3 ly dọc 2 mép ngoài quần) để tạo dáng quần xòe rộng, trông yểu điệu mà cử động lại thoải mái hơn.

Thường mặc quần trắng chít ba (hai bên mép cạp quần được may ba lần gấp để đi lại quần sẽ xòe rộng ra cho đẹp)

Không khí ” văn hóa cung đình ” luôn luôn biểu lộ trong cung cách “Người Huế” bao giờ cũng ăn mặc áo dài lịch sự khi tiếp khách trong nhà cũng như khi bước ra khỏi cửa hay buôn bán trên đường phố với hình ảnh các o bán bún, chè gánh… Các hình ảnh này của văn hóa cung đình đã biến mất sau năm 1975 trước trang phục của văn hóa xã hội chủ nghĩa. Nhưng ngày nay, từ năm 1986, truyền thống văn hóa cung đình được khôi phục với hình ảnh chiếc áo dài phụ nữ yểu điệu thân thương xuất hiện lại trong cõi ” sương khói mờ nhân ảnh “… đó cũng là yếu tố của phong cách áo dài Huế… Nó được tản rộng ra khắp cả nước và nước ngoài bởi các nhà tạo mẫu hiện đại, các buổi trình diễn thời trang luôn luôn được mọi người yêu chuộng.

Cô gái Huế yêu thơ và nhạc lễ,
Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Bích Lan nữ sĩ
Canh tân
Áo dài Huế được canh tân nhiều lần.
– Canh tân nhờ khổ vải rộng nhập cảng,
– Canh tân của họa sĩ Cát Tường,
– Canh tân của Bà Ngô Dình Nhu.

Canh tân lần thứ nhất

Từ ngày nhờ khổ vải nhập cảng rộng rãi với nhiều mầu sắc tươi sáng, áo dài Huế cũng như các nơi khác không còn phần nối giữa sống áo, kéo dài xuống cách mắt cá 20cm, trông mềm mại hẳn. Khởi đầu là năm 1917, nữ sinh đồng Khánh mặc đồng phục quần trắng, áo dài tím. Tiếp theo là “Thời trang Nam Phương Hoàng hậu” (áo dài Huế với khăn đóng hoàng hậu) làm trang phục cổ truyền dành cho các cô dâu trong đám cưới.

Canh tân lần thứ hai

Nhờ sản xuất được khổ vải rộng chiều ngang hơn xưa, áo dài cổ truyền không phải nối vạt nên chỉ còn hai vạt trước sau. Sau đó vào năm 1930, họa sĩ Cát Tường (Lemur) cải cách chiếc áo tứ thân thành áo có hai vạt trước sau mà thôi, vạt dài gần chấm đất, may ôm sát theo đường cong cơ thể, tay nối trên vai bồng, hàng khuy chạy dọc theo vai và sườn phải đầy khêu gợi mặc đi đôi với quần dài trắng (trước đó chỉ đàn ông mặc quần trắng). Thân hình đàn bà được biểu lộ. Canh tân này được hai tờ báo Phong Hóa, Ngày Nay ủng hộ. Năm 1934, họa sĩ Lê Phổ cải tiến Lemur, loại bỏ những đường nét quá tây phương để dung hòa với áo ngũ thân cũ, không nối vai, nối tay, không tay phồng cổ hở mà vẫn cổ kín vạt dài không viền tròn nhưng ôm sát thân người để hai tà áo tự do bay lượn. Canh tân lần thứ hai này đã định hình cho áo dài hiện nay mang dấu ấn văn hóa thành thị âu tây hóa.

Canh tân lần thứ ba

Cuối năm 1958, áo dài của phu nhân ông cố vấn Ngô Đình Du là tiền thân của các tà áo dài hiện nay. Canh tân áo dài của bà Trần Lệ Xuân là :

– Bỏ cổ đứng thay vào bằng cổ hở, cổ khoét ( năm 1960, nhà may Dung ở Dakao đưa ra kiểu áo với cách ráp tay raglan (Giác lăng),

– Họa tiết trang trí trên áo (cành trúc, hoa mai…) và từ đó đến nay trang trí trên tà áo nở rộ họa tiết đủ màu, đủ cảnh được vẽ trên áo dài cổ truyền,

Thời đệ Nhất Cộng Hòa, cô dâu mặc quốc phục của ” mệnh phụ ” : áo dài màu khoác bên ngoai áo thụng rộng may theo kiểu áo mệnh phụ hoặc áo hoàng hậu nhà Nguyễn. Cuối thập niên 60, nhà may Thanh Khánh ở Dakao sáng chế ra các mẫu hàng thêu hoa lá cành để may áo dài và tiệm Sài Gòn Souvenirs giới thiệu mẫu hàng vừa vẽ, vừa thêu trên lụa, quí phái lịch sự.

Từ những canh tân kế tiếp nhau mà trong cuộc thi hoa hậu hoàn vũ, áo dài

” vũ khúc hạc ” với cách thiết kế hai lớp áo theo kiểu dáng áo của Nam Phương Hoàng Hậu giúp hoa hậu Thùy Lâm lọt top 10 người đẹp trình diễn trang phục truyền thống đẹp nhất.

Về áo dài đàn ông thì cho đến nay vẫn theo mẫu mực áo dài của các vua nhà Nguyễn. Áo dài nam phục thì ít phổ biến, chỉ xuất hiện trong lễ hội truyền thống, tế lễ , đám cưới…

Quốc phục áo dài

Sau 1975, áo dài của Sài Gòn bị cấm đoán và đi theo bước chân di tản ra ngoại quốc. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1980 đưa đến chính sách ” đổi mới ” theo kinh tế thị trường và âu hóa xã hội nên từ năm 1984, áo dài của văn hóa đô thị chôn kín trong đáy tủ đã vượt ra tung bay khắp nước như đàn bướm đón chào hồi sinh văn hóa cổ truyền làm chuẩn mực y phục cho nữ sinh, lễ hội, tại tiệm ăn và khách sạn sang trọng.

Dù đã bị kết án là tàn dư phong kiến, áo dài truyền thống xuất hiện trong lễ công bố tuyên bố chung năm 2006 tại Việt Nam, các nhà lãnh đạo nền kinh tế APEC mặc áo dài truyền thống như thời xưa kia.


Quốc phục Việt Nam tại APEC 2006

Ngày nay, với sự phát triển của văn hóa thành thị dựa trên công nghệ và sáng tạo không ngừng, vẻ đẹp của y phục Việt nhất là của phụ nữ, phụ thuộc vào kỹ thuật thiết kế, màu sắc, vải vóc… Ngày 10-9-1995, tại cuộc thi hoa hậu quốc tế ở Tokyo. Hoa hậu Việt Nam Trương Quỳnh Mai chiếm giải thưởng quốc phục đẹp nhất (Best national costume). Hoa hậu Việt Nam mặc áo dài gấm xanh, hoa bạc, quần trắng, đội khăn đóng…

Ngày 10/11/2017, hoa hậu Á Châu tại Hoa Kỳ là việt kiều Jennifer Phạm mặc áo dài truyền thống vẽ hoa sen được chính phủ cộng sản mời về đà Nẵng làm MC cho bữa tiệc và biểu diễn văn nghệ để giới thiệu với APEC.


Jennifer Phạm APEC 2017

Từ đó, áo dài của thời Việt Nam Cộng Hòa xuất phát từ văn hóa cung đình Huế lan tràn ra ngoài ranh giới quốc gia và nay là biểu tượng cho bản sắc văn hóa chung cho Việt Nam và đánh dấu sự thất bại toàn diện của cách mạng văn hóa vô sản.

Thi ca trong tà áo

Sắc thái văn hóa trong y phục được biểu hiện qua thi văn, ca dao, tục ngữ, hội họa, nhiếp ảnh… tạo nên một sắc thái văn hóa trong y phục của dân Việt. Phải nói áo dài duyên dáng thướt tha, cái yếm hở lườn khêu gợi, cái váy ấp ủ bí mật đã truyền vào thi nhân một năng lực mộng mơ dạt dào vô biên cứ mải miết thay nhau dệt mộng cho y phục cổ truyền.

đây lời ca tụng áo dài trong bài thơ ” Chiếc áo dài Việt Nam ” của đinh Vũ Ngọc:

Chiếc áo quê hương dáng thướt tha,
Non sông gấm vóc mở đôi tà.
Tà bên Đông hải lung linh sóng,
Tà phía Trường Sơn rực rỡ hoa.
Vạt rộng Nam Phần trao cánh gió,
Vòng eoTrung Việt thắt lưng ngà.
Nhịp tim Hà Nội nhô lồng ngức,
Hương lúa ba miền thơm thị da
Biển dâu sực tỉnh sơn hà,
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh.
Thơ Bùi Giáng

Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong,
Hôm xưa em đến mắt như lòng.
Thơ Huy Cận

Em như tiên nữ khối mười hai,
Dấu cả trời thơ trong áo dài.

Nắng thơ dệt sáng trên tà áo,
Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài.

Mềm mại, dịu dàng vương cánh áo,
Mảnh mai, duyên dáng đậu bờ vai.
Chợt nghĩ áo dài nên thơ ấy,
Có còn ôm ấp những thơ ngây?
Thơ Hoàng Sa

Em xinh xinh quá dáng mảnh mai,
Áo dài tha thướt quá tuyệt vời.
Nhìn em nhớ một thời áo trắng,
Nón lá nghiêng che tóc dài bay.
Thơ Nguyễn Thị Quí

Áo dài phảng phất hay xuất hiện trong rất nhiều ca phúc như trong bài
” Một thoáng quê hương ” của Từ Huy:
Tà áo em bay…bay,bay, bay, bay… trong gió nhẹ nhàng dù ở đâu, Paris, Luân đôn…thoáng thấy áo dài bay trên đường phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó…em ơi…
Trong bài ” Áo dài ơi ” của Sĩ Luân:
Áo dài vui, áo dài hát bao nắng xuân đang về khắp nơi,
Áo dài nói, áo dài cười mang hạnh phúc đến cho mọi người.

Trong bài ” Ngàn thu áo tím ” của Hoàng Trọng:
Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím,
Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím.

Trong bài ” Cô gái Việt Nam ” của Huỳnh Nhật Tân:
Em như đóa hoa xinh trong tà áo dài Việt Nam,
Em yêu quí quê hương, yêu tà áo dài Việt Nam…

Trong thế giới âm nhạc, tà áo dài là nguồn cảm hứng cho nhiều nhạc sĩ như các tác phẩm Ngàn thu áo tím (Hoàng Trọng), Tà áo cưới (Hoàng Thi Thơ), Tà áo tím (Hoàng Nguyên), Tà áo em bay (Nguyễn Dũng) v.v.

Nhiều bạn ngoại quốc của nhà văn Bửu Ý từng ngưỡng mộ áo dài thốt lên: ”Không đâu có loại trang phục nữ nào kín đến thế, cũng không có loại áo nào hở cho bằng, nhất là khi khoác trên mình những cô gái dịu hiền xứ Huế”. Bởi đủ dài tha thướt để hút ánh mắt người ta theo vóc dáng thanh tao như bay, như múa trên phố. đủ kín để người ta ước tìm chỗ hở, chỗ nhô. Càng đủ nhẹ để người ta thấy sức nặng quyến rũ của ánh mắt trong sáng, nụ cười e ấp, cử chỉ duyên dáng, rồi cảm nhận trái tim nhân hậu, dịu dàng của người phụ nữ vùng non thanh, thủy tú này.

Áo dài tứ thân ở miền Bắc với nón ba tầm Áo dài miền Trung

Aó dài của cung nữ                                                     

Áo dài của Hoàng Hậu và Hoàng Đế Bảo đại


Các kiểu cổ áo dài

Chú thích

(1) – Cadière L. Le changement de costume sous Võ Vương ou une crise religieuse à Huế au XVIIIè siècle, Bulletin des Amis du Vieux Hué, tr. 417-424

(2) – Người phụ nữ Huế mặc áo dài trắng cả trong khi làm lụng, bán rong trên hè phố, ra khỏi nhà vài ba bước…để bày tỏ sự kính trọng người chung quanh. Vua Khải Định thường mặc áo dài khi ngồi đọc sách. Ngoại thành Huế, Hương Trà, Phú Vang sản xuất hàng vóc, sa, lĩnh gấm…Làng thêu danh tiếng như Sơn Điền, Dương Xuân.