Soạn giả cải lương Trần Hữu Trang quê ở xã Phú Kiết, tỉnh Tiền Giang (trước đây là tỉnh Mỹ Tho, trước nữa là tỉnh Định Tường).

Soạn giả là con một gia đình trung nông, sau bị phá sản vì chính sách bóc lột của thực dân Pháp. Đời ông nội, gia đình còn có căn nhà vào hạng khá. Đến đời cha, có thời đã phải mướn ruộng đất điền chủ.

Sau này khi viết về những người tá điền, soạn giả Trần Hữu Trang đã thể hiện cảnh ngộ và tâm trạng của họ rất sâu sắc.

Là người có học – thuở nhỏ Trần Hữu Trang cũng chỉ học chữ Nho và tiểu học ở trường làng, nhưng ông đọc sách, tự học được nhiều – có lẽ soạn giả cải lương lừng lẫy tiếng tăm sau này thấy không thể ở thế kỷ XX mà phải cam chịu kiếp nông nô như vậy nên sau khi lập gia đình, ông ra Tân Hiệp làm thợ hớt tóc.

Nhà tác giả “Đời cô Lựu”, điểm nóng mùa tết ở Tiền Giang - Báo Người lao động

Nhưng rồi không thể kiếm sống được bằng nghề hớt tóc, ông phải đổi sang làm nghề đạp ghe thuyền chở khách từ chợ Hương Điền lên chợ Bến Tre. Đạp ghe thuyền trên mặt nước cũng tựa như đạp xích lô trên bộ, nhưng còn nặng nhọc hơn nhiều khi thuyền ngược nước. “Trong xã hội cũ chỉ có người nghèo mới hiểu người nghèo, mới thiết tha đến vận mạng của người nghèo, bởi vậy những tác phẩm nhuộm đầy màu sắc xã hội của anh… bao giờ cũng được quần chúng đông đảo hoan nghênh…

Nhớ những gánh hát nghèo hết tiền hết gạo, sắp tan rã được anh đùm bọc, viết vở cho không để diễn. Chiếc áo bà ba rách vá một miếng trên vai, che tạm tấm thân mảnh khảnh không làm anh bạn bận bịu nỗi mình, mà luôn sẵn lòng đi lo cho người khác”. Đó là lời nghệ sĩ Nguyễn Phương Danh (Tám Danh), – “Người bạn già từ thuở hàn vi lang thang trên khắp nẻo đường đời”, đã nói trong lễ truy điệu Trần Hữu Trang tại Hà Nội (20/11/1966). Cuộc sống đổi bát mồ hôi lấy bát cơm đã cung cấp cho soạn giả một vốn hiểu biết, hơn thế, một vốn tình cảm, để sáng tác sau này.

Trần Hữu Trang sinh năm 1906 tại xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình nông dân. Ngay từ nhỏ ông đã say mê đàn hát. Lúc đầu ông đi theo các gánh làm thư ký chép vở, sau đó được Mười Giảng (tức Đặng Công Danh) hướng dẫn, dần dần ông trở thành soạn giả cải lương. Ông cho ra mắt kịch bản đầu tay Lửa đỏ lòng son vào năm 1928.

Những năm 1930, ông nổi tiếng với hàng loạt sáng tác như Tô Ánh Nguyệt(1934), Lan và Điệp (1936), nhất là Đời cô Lựu (1937). Ông cộng tác với các gánh hát Trần Đắc, Năm Phỉ, Phụng Hảo, Năm Châu. Những sáng tác sau đóTìm hạnh phúc, Mộng Hoa vương, Chị chồng tôi, Tình luỵ, Khi người điên biết yêu– cộng tác với Năm Châu, Lê Hoài Nở – tiếp tục gây tiếng vang lớn.

Ông từng tham gia phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu. Thời kỳ 1930-1931, 1935-1936, ông liên lạc với các cơ sở cách mạng. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hăng hái tham gia kháng chiến. Năm 1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản thuộc Ban Cán sự Văn hoá. Năm 1948, ông trở lại hoạt động tại Sài Gòn, cùng Năm Châu và Ba Vân thành lập Ban phụ trách đoàn Việt kịch Năm Châu, cơ sở kháng chiến đầu tiên của cách mạng trong ngành sân khấu thành phố. Năm 1960, ông là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng.

Ông hy sinh ngày 1/10/1966, tại suối Cây vùng Xa Mát (Tây Ninh) trong một trận bom oanh tạc của Mỹ.

Trần Hữu Trang đã được Nhà nước truy tặng Huân chương Thành đồng và Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật đợt 1 (1996).

Tên tuổi của ông gắn liền với nhiều địa danh, nhiều tổ chức như Nhà hát Trần Hữu Trang, Giải thưởng Trần Hữu Trang, đường Trần Hữu Trang, trường Trần Hữu Trang, chợ Trần Hữu Trang…

Soạn giả Trần Hữu Trang

Mẹ Nguyễn Thành Châu (nghệ sĩ Năm Châu) với mẹ Trần Hữu Trang là hai chị em. Nguyễn Thành Châu sớm bước vào sân khấu cải lương từ nhiều năm trước khi phong trào cải lương còn phôi thai và đã trở thành một “thầy tuồng” và “kép hát” có tiếng tăm. Năm 1929, Trần Đắc Nghĩa lập gánh Trần Đắc, mời Năm Châu cộng tác. Năm Châu giới thiệu Trần Hữu Trang vào làm chân bán vé và chép vở. Bước đầu, Trần Hữu Trang đến với sân khấu cải lương khiêm nhường như vậy.

Nhưng không phải hoàn toàn ngẫu nhiên mà Trần Hữu Trang trở thành soạn giả Tư Trang nổi tiếng sau này.

Mỹ Tho vốn là quê hương của cải lương. Người có công gầy dựng nghề hát cải lương ban đầu và đưa cải lương lên thành một loại hình sân khấu là Châu Văn Tú, thường được gọi là thầy Năm Tú. Rạp hát cải lương đầu tiên là do thầy Năm Tú dựng lên ở gần chợ Mỹ Tho. Những bài hát cải lương, những tuồng cải lương được ghi âm vào đĩa nhựa cũng là do công của thầy Năm Tú. Những đĩa hát này mở đầu bằng câu “Đây là gánh hát thầy Năm Tú tại Mỹ Tho ca trên đĩa Pathé nghe chơi”.

Các gánh cải lương lớn đầu tiên Đồng bào Nam, Nam Đồng ban, Tái Đồng ban, Huỳnh Kỳ… đều do các chủ nhân người Mỹ Tho sáng lập.

Mỹ Tho cũng là quê hương của nhiều nghệ sĩ cải lương, có tên tuổi: Hai Giỏi, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Tư Chơi, Năm Phỉ, Phùng Há, Bảy Nam, Từ Anh, Hai Thông, Tám Cang, Tám Mẹo…

Gần gũi hơn, ngay nơi sinh trưởng của Trần Hữu Trang, phong trào cải lương cũng tìm được miếng đất màu mỡ trong quần chúng.

“Tại Tân Hiệp (Mỹ Tho), cũng có một nhóm người như các anh Hai Ngọc, Bộ Vang họp với một số anh chị em tài tử khác thành lập gánh hát nhỏ như nhóm hát ở xã Phú Kiết (Mỹ Tho). Một số anh chị em lại tổ chức thành những đoàn, những nhóm hát nhỏ đi diễn các chợ như Tân Hiệp, Nhật Tân, Bến Tranh, Củ Chi, Phú Mỹ… Hoạt động của các nhóm đó có tính cách văn nghệ nhân dân, biểu diễn để phục vụ đồng bào chứ chưa có tính cách kinh doanh”.

Như vậy, Trần Hữu Trang sinh trưởng trên dải đất của đờn ca, của phong trào cải lương. Bản thân soạn giả cũng là một “tài tử” trước khi thành soạn giả. Ông sở trường cây đàn kìm và có một vốn hiểu biết chắc chắn về nhạc dân tộc, nhất là các bài ca cải lương.

Khi ông hớt tóc ở Tân Hiệp, nhà ông thường là chỗ lui tới của nhiều tài tử ca nhạc. Họ đến đây để biểu diễn, thưởng thức, bàn luận về đàn ca. Một trong những khách siêng năng của phòng “khách thính” ấy là Nguyễn Công Mạnh. Vốn là một nghệ sĩ hát bội, sau chuyển sang viết các bài ca cải lương, Nguyễn Công Mạnh là người đã khiêu gợi ở Trần Hữu Trang ý hướng viết cải lương.

Khi Trần Hữu Trang đến với phong trào cải lương, với tư cách chuyên nghiệp chứ không phải “tài tử” nữa, thì phong trào cải lương đã ở vào thời kỳ phồn vinh nhất của nó. Các gánh lớn Tân Thinh, Tập Ích ban, Văn Hý ban, Tái Đồng ban, Phước Cương, Huỳnh Kỳ, Trần Đắc… đã gây tiếng vang trên các sân khấu từ Nam ra Bắc, cả ở ngoài nước nữa. Năm 1931, khán giả ở Pa-ri đã có dịp nhiệt liệt hoan nghênh nữ nghệ sĩ Năm Phỉ trong vở Xử án Bàng Quý phi – Báo chí Pháp ca ngợi với những lời lẽ trân trọng. Báo Không khoan nhượng (Intransigeant) viết: “Tôi thấy ở trường đấu xảo thuộc địa có một nữ nghệ sĩ Việt Nam mà nghệ thuật không thua bất kỳ một nữ nghệ sĩ nào của ta”. Báo Cô-mê-đi-a nhận định: “Người nữ diễn viên tài ba muốn dẫn chúng ta đi đến đâu cũng được”.

Nhiều vở cải lương đặc sắc được trình diễn, do các soạn giả có tài năng sáng tác.

Soạn giả đầu tiên của sân khấu cải lương Mạnh Tự Trương Duy Toản là một chí sĩ, đã tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục và là chủ bút các báo Sài Thành, Trung lập báo. Khi bị quản thúc ở Phong Điền (Cần Thơ) ông đã viết nhiều bài ca cho ban nhạc tài tử Ái Nghĩa ca chơi trong thôn xóm. Rồi anh sang Sa Đéc soạn bài ca cho nhóm Sa Đéc Amis. Từ những bài đơn ca cho một người ca, ông dần dần có sáng kiến viết những bài liên ca cho nhiều người ca đối đáp. Đó là hình thức phôi thai của cải lương. Các vở của soạn giả Trương Duy Toản như Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều, Nhị độ mai đều nhằm đề cao đạo lý dân tộc.

Đào Châu là bút danh của soạn giả Đào Trí Phú, một trí thức Tây học cũng giỏi cả Nho học, làm đốc học. Viết vở cho Văn ký ban, ông đã “tung” cao cô đào Chín Thêu với vở Kỳ duyên phổ. Vở diễn thành công lớn đến nỗi khán giả đều gọi cô Chín Thêu bằng cái tên Tô Ngọc Diêu – tên nhân vật – và sau đó cô cũng lấy tên đó luôn. Đào Châu cũng là soạn giả vở Xử án Bàng Quý phi nổi tiếng.

Trần Phong Sắc là soạn giả của gánh Đồng bào Nam. Lớp khán giả đầu tiên của sân khấu cải lương khó quên được hai vở Bội thê thiên xử và Tham phú phụ bần. Trong vở Tham phú phụ bần, kép Hai Giỏi thể hiện vai thây thông ngôn Trần Trọng Nghĩa thật sâu sắc. Có lần anh bị ốm không ra sân khấu được, khán giả nhất định không cho thay người, gánh hát đành phải khiêng anh ra sân khấu để khán giả thấy rõ tận mắt mới chịu.

Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền là soạn giả viết nhiều vở về nhiều đề tài, thuộc nhiều loại tuồng: Giọt máu chung tình, Trần Hưng Đạo Bình Nguyên (tuồng lịch sử), Phụng Nghi đình, Hoa Mộc Lan tòng chinh (tuồng Tàu), Mã Hoa Nhi (tức Matahari tuồng gián điệp), Thành sầu bể khổ, Màn chót Huỳnh Kỳ (tuồng xã hội)…

Nguyễn Thành Châu (Năm Châu) là một học sinh trung học vì say mê cải lương mà đi vào nghệ thuật. Nghệ sĩ Năm Châu vừa là diễn viên tài năng vừa là soạn giả giỏi. Ông là người có công lớn đối với nghệ thuật cải lương. Ông soạn nhiều vở dựa theo các tích cũ như Thôi Tử thí Tề quân, Mộc Quế Anh dâng cây. Nhưng người ta nhớ đến soạn giả Năm Châu nhiều vì các vở phóng tác theo các tác phẩm phương Tây và các vở sáng tác về đề tài xã hội. Chúng ta có thể kể Giá trị danh dự (phỏng theo kịch Le Cid của Corneille), Tuý hoa vương nữ (phỏng theo kịch Marie Tudor của Victor Hugo)… Đáng chú ý hơn là các vở về đề tài xã hội:Tội của ai? Tiếng nói trái tim, Giấc mộng cô đào, Tư sinh tử (Con không cha hay Sư cụ hàm oan), Phũ phàng (Men rượu hương tình), Đêm dài vô tận (Đêm không ngày)…

Huỳnh Thủ Trung (Tư Chơi) cũng như Năm Châu, vừa là diễn viên vừa là soạn giả. Tư Chơi nguyên là một nhạc sĩ đàn đoản (đàn tứ) từ thời vọng cổ ca nhịp tư ở Tái Đồng ban. Vì một câu chuyện riêng, ông phẫn chí đi tìm thầy học chữ Nho để viết vở. Các vở về tích cũ của ông được nhiều người hâm mộ là Chung Vô Diệm phó hội kỳ bàn, Sơn hà xã tắc, Châu Văn Lễ thọ tam ban, Châu Văn Ngỡi thọ diễn. Về đề tài xã hội, ông có: Lỡ tay trót đã nhúng chàm, Ai bạn chung tình, Khúc oan vô lượng, Đầu xanh có tội, Đời cô Lý…

Và còn nhiều soạn giả khác có vị trí vững vàng như Ngô Vĩnh Khang với vở Tơ vương đến thác, Đặng Công Danh (Mười Giảng) với vở Tứ đổ tường, Lê Hoài Nở với vở Vó ngựa truy phong…

Điểm qua phong trào cải lương như trên, ta thấy Trần Hữu trang bước vào sân khấu cải lương có thuận lợi, đồng thời cũng có khó khăn: sân khấu cải lương đã có bề thế, có quy mô lớn, có truyền thống và được đông đảo khán giả nhiệt liệt ủng hộ. Nhưng tìm được chỗ đứng, đem được cái gì mới đánh dấu sự góp phần của mình vào sân khấu cải lương?

Trần Hữu Trang đi theo con đường nào? Những yếu tố gì đã tạo ra phong cách riêng của soạn giả?

Định Tường là một trong ba tỉnh miền Đông bị quân Pháp chiếm đóng trước tiên.

Sau trận “Bảo định hà lưu huyết”, Mỹ Tho bị mất vào tay quân giặc, nhưng chúng chỉ đóng được ở ba nơi là Gia Thạnh, Gò Công, Chợ Gạo, còn ở các nơi khác nghĩa quân vẫn tiếp tục kháng cự.

Lịch sử kháng chiến chống Pháp còn ghi thành tích vị anh hùng không biết tên thật là gì vẫn thường được gọi là Phủ Cậu. Phủ Cậu bị bán thân bất toại, nhưng quân giặc khiếp sợ oai ông đã tặng cho cái danh hiệu “Hùm xám”.

Trận đánh đồn Thuộc Nhiêu cách Mỹ Tho 20 cây số của Trương Định là một chiến công oanh liệt. Khi nghĩa quân đã lâm vào tình thế thất bại, người của Trương Định vẫn ra vào Mỹ Tho, dán bố cáo đóng dấu Bình Tây đại nguyên soái đàng hoàng.

Vùng này cũng là địa bàn hoạt động của nhiều vị anh hùng kháng Pháp, như Phan Liêm, Phan Tôn, Thân Văn Nhiếp, Trương Huệ…

Bến Tranh, Phú Kiết chính là quê hương của Thủ khoa Huân, vị sĩ phu kháng Pháp nổi tiếng, và cũng là nơi tuyệt mệnh của người chiến sĩ cương trực ấy. Vùng này còn truyền tụng, coi như một danh dự tối cao của địa phương, những giai thoại về Thủ khoa Huân. Ông bị bắt, không chịu đầu hàng, thực dân đày ông đi Côn Đảo rồi đưa sang đảo Re-uy-ni-ông (Réunion) theo kiểu “bán mọi bòn bon”. Khi lìa Tổ quốc, Thủ khoa Huân làm một bài thơ, trong đó có những câu:

Mấy hồi tên đạn ra tay thử

Ngàn dặm non sông dạo gót chơi

Chén rượu Tần đình nào luận tiệc

Vần thơ Cố quốc chẳng ra lời!

Được trả lại tự do, ông lại kéo cờ kháng Pháp. Bắt được ông lần này, chúng đem hành hình giữa chợ Thân Trong ở Phú Kiết để răn đe những người yêu nước. Trước lúc chết, ông để vợ con tế sống và khẳng khái ngâm một bài thơ tuyệt mệnh:

Ruổi rong vó ngựa trả thù chung

Binh bại cho nên mạng phải cùng

Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ

Hơn thua sá kể với anh hùng.

Nổi sung mất vía quân Hồ Lỗ

Quyết thác không hàng rạng núi sông

Tho Thuỷ ngày rày pha máu đỏ

Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong.

Những câu chuyện ấy, những lời thơ ấy mãi mãi âm vang trong lòng những người dân Định Tường.

Khi nổi lên phong trào Đông Du do nhà chí sĩ Phan Bội Châu đề xướng, các thân hào, nhân sĩ Tiền Giang hưởng ứng mạnh mẽ. Trần Chánh Chiếu (tức Gilbert Chiếu) là một trong những người có công lớn trong việc cổ động và tổ chức học sinh xuất dương. Cơ sở hoạt động của ông ở Mỹ Tho chính là nhà hàng Minh Tân. Ca ra bộ dạng sơ khởi của cải lương – ra mắt khán giả đầu tiên ở nhà hàng này.

Trong phong trào “Hội kín Nam kỳ”, Tiền Giang đóng một vai trò quan trọng: Ở Mỹ Lợi có phong trào Nghĩa Hoà hội, ở Thái Sơn có Duy Tân hội, ở Long Hưng có Phục Hưng hội, ở Mỹ Tho có Thi Bình hội. Các nhóm chính trị khoác áo tôn giáo cũng có những tổ chức tại Mỹ Tho: thí dụ nhóm Nguyễn Văn Tiên ở làng Hiếu Đạo.

Sống ở nơi diễn ra nhiều sự kiện yêu nước như vậy và là người ham đọc sách, ưa suy nghĩ, Trần Hữu Trang sớm có tinh thần dân tộc sâu đậm. Ông Nguyễn Văn Trí thuật lại một số chuyện: trong cao trào yêu nước 1926-1928, Trần Hữu Trang là một trong số người hăng hái đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu, hưởng ứng những buổi diễn thuyết của Phan Chu Trinh và để tang nhà chí sĩ. Có lần, một đồng chí cách mạng bị mật thám theo riết phải chạy vào hiệu hớt tóc của Trần Hữu Trang.

Ông bình tĩnh che giấu đồng chí ấy và đánh lạc hướng bọn mật khám. Khi đồng chí ấy đi, ông mở tủ: cả nhà còn 20 đồng bạc ông đưa tất cả cho làm lộ phí. Một người bạn tham gia phong trào chính trị bị bắt đày ra Côn Đảo 15 năm, người vợ ở nhà đi lấy chồng khác, Trần Hữu Trang rất phiền lòng về việc này, nhiều lần đến khuyên can, sau tha thiết đề nghị cho đem con người bạn về nuôi dạy (Trong câu chuyện này có những chi tiết giống như Đời cô Lựu và Chị chồng tôi). Trong thời kỳ Trần Hữu Trang làm cho gánh Phụng Hảo, chiến sĩ cộng sản Nguyễn Chí Diểu đã từng đến gặp soạn giả để trao đổi về khuynh hướng “tả thực xã hội”.

Trong cuộc sống thường này, Trần Hữu Trang ưa sự giản dị. Khác với nhiều văn nghệ sĩ khác, hễ “có tài là có tật”, Trần Hữu Trang không mắc một thứ nghiện nào, ngay khi ông đã lừng lẫy tiếng tăm cũng vậy. Thực ra, soạn giả Tư Trang chưa bao giờ giàu, mặc dù vở của ông được các đoàn tranh nhau diễn. Hai hãng dĩa nhựa đã kiện nhau trước toà án Sài Gòn về việc thu thanh vở Tô Ánh Nguyệt.  Trên tờ báo Dân Nguyện (30 tháng 7 năm 1954), một ký giả đã tỏ ý bất bình khi thấy các gánh hát lợi dụng các vở diễn của Trần Hữu Trang để thu những món lợi nhuận lớn, trong khi ấy soạn giả sống túng thiếu giữa thành phố “Sài Gòn hoa lệ”: “Anh Trần Hữu Trang vốn ít nói, không bao giờ anh chịu nói cả. Nhưng tôi thấy phải nói. Tôi thấy phải nói vì tôi thấy anh Tư Trang mặc chiếc áo “chemise” màu trắng hoá ra màu ngà, cổ áo rách bươm, vai mạng vài chỗ. Tôi thấy tôi phải nói vì tôi hiểu rõ cách sống đạm bạc thanh bần của anh Tư Trang”.

Các gánh ít vốn đến nhờ giúp vở, soạn giả thường cho không lấy tiền.

Thường thường soạn giả ăn lót dạ buổi sáng mấy củ khoai, một trái bắp, hoặc một chút xôi, bữa cơm có món mặn thường là cá kho và rau. (Ông ưa rau lang vì có bệnh đau ruột già). Soạn giả rất khi đi ăn tiệm. Vui anh em rủ hoặc vì công việc thì đi, nhưng không bao giờ nhậu nhẹt đến mức say sưa cả. Quần áo thường dùng là một bộ bà ba trắng. Mặc âu phục thì áo sơ mi luôn giắt trong quần, đội mũ cối trắng, đi dép (xăng-đan) chỉ khi nào cần lịch sự thì mới  mặc vét-tông, thắt cà-vạt.

Soạn giả Trần Hữu Trang thích ngăn nắp, trật tự trong khi làm việc. Ông thường viết vở trong nhà hát. Nhiều soạn giả với tác phong gọi là “nghệ sĩ bạ đâu cũng đặt giấy viết: trên mặt một chiếc hòm hoặc một chiếc bàn để ngồi viết”. Ông viết chữ nghiêng rất cẩn thận, chú ý từng dấu chấm, phẩy, nét chữ rõ ràng, không viết tháu. Khi đã là soạn giả nổi tiếng, ông vẫn viết lại bản thảo chu đáo như khi còn là người thư ký chép vở bình thường. Ông viết chữ bằng bút chấm mực, ít dùng bút bi. Sau này có người cho một chiếc bút máy Parker thì ông giữ dùng mãi.

Ban ngày bận nhiều việc, ông viết vào buổi tối. Không khi nào thức quá 2 giờ sáng, ông giữ tác phong làm việc đều đặn, không tuỳ hứng.

Tính tình ông trầm tĩnh, chân chất, chan hoà với mọi người. Trong các đoàn, mọi người gọi ông bằng những cái tên thân mến: Anh Tư, thầy Tư. Người ta còn quen gọi ông là Tam Tạng vì tên Trần Hữu Trang và cũng vì tính nết ông rất hiền từ đôn hậu. Anh em có chuyện xích mích, luôn luôn ông là người hoà giải. Trong điếu văn đọc ở lễ truy điệu soạn giả, nghệ sĩ Tám Danh đã nói: “Tình đó, nghĩa đó, ai mà không phục. Bởi vậy khi có chuyện giận hờn xích mích nhau trong nội bộ mà vắng mặt anh, thì hai tiếng Tư Trang là khẩu hiệu tự nhiên nhắc nhở kép, đào, họa sĩ, nhạc công đoàn kết”.

Đối với bạn bè, soạn giả lấy sự trung tính làm gốc. Gặp ai có chút tương đắc, ông hỏi rõ địa chỉ, ghi lại cẩn thận để qua lại thăm viếng hoặc trao đổi thư tín. Vì thế, anh em còn thường gọi đùa ông là “Trần địa chỉ”. Đã là bạn thì dù thường ngày hay gặp nhau hoặc vì hoàn cảnh ít có dịp gần gũi, ông đều giữ mối giao tình đằm thắm… Trong cuốn sổ lưu niệm của nhà điêu khắc Diệp Minh Châu có những dòng viết của soạn giả Trần Hữu Trang:

Anh Châu

Một người bạn gặp anh rất nhiều, nói với anh rất ít và không khi nào anh nghe có tỏ ra nửa lời khen về anh. Nhưng, một tấm lòng vẫn quý trọng anh cũng như đã quý trọng bao nhiêu bậc có chân tài.

Ngoài ra, tôi lại còn ưa mến riêng anh về cái đức tính: vui vẻ, dễ dãi và hiền lành.

Năm năm trước, vào những đêm gió mưa rét mướt, chúng ta đã gặp nhau trong một gian nhà chật hẹp phố Mã Mây. Rồi khi đó, khi đây, thỉnh thoảng ta lại gặp nhau, bắt tay nhau cười mà không nói.

Sống và “sáng tạo”.

Chúng ta đã hiểu nhiều nhau bằng một tâm hồn.

Lòng thành gửi bạn Diệp Minh Châu, một họa sĩ có chân tài, biết yêu nghề, yêu đời và yêu người.

(Ký) Trang

Sài Gòn một ngày hạ tuần mùa đông Giáp Thân (9-2-1944)

Trần Hữu Trang – Phú Kiết – Mỹ Tho.

Trong cuốn sổ lưu niệm của Tiến sĩ Sử học Phan Lạc Tuyên cũng có một trang viết của Trần Hữu Trang:

Ghi lại mấy câu vọng cổ trong vở ca kịch Đời cô Lựu

Cảnh thứ ba

Lúc anh Hai Thành vượt Côn Đảo về gặp vợ chồng ông Hương lão, người cùng xóm với nhau, cùng nhau kể lại sự tình.

Tặng bạn Trường Giang để ghi nhớ một buổi sáng (5-1-64) giữa lúc Đại hội Mặt trận DTGPMNVN, nhân dịp chúng tôi ở cạnh nhà nhau, cùng nghe chuyện qua Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, thư của nhà soạn kịch Sĩ Tiến ở miền Bắc gởi thăm các bạn nghệ sĩ sân khấu miền Nam và tôi. Và anh Sĩ Tiến ngỏ ý muốn dựng lại vở Đời cô Lựu.

Ngày 8-2-64

(Ký tên) Trang

(Trần Hữu Trang)

Vài trang trong nhiều trang lưu niệm hoặc thư mà soạn giả Trần Hữu Trang gửi các bạn, đã nói lên khá đầy đủ cách đối xử chân tình của soạn giả với các bạn hữu. Ta đã hiểu vì sao trong nhiều vở của soạn giả có những mối tình bạn hết sức cao đẹp.

***

Con người bề ngoài điềm tĩnh ấy mang bên trong một bầu tình cảm sôi nổi đối với cuộc sống và nhất là đối với văn nghệ.

Ai mến phục soạn giả đưa vở hát hoặc thơ văn đến nhờ cho ý kiến phê bình giúp đỡ, soạn giả đều đáp ứng lại một cách nhiệt thành.

Trần Hữu Trang là một người đi vào văn nghệ có chủ đích rõ ràng. Bắt đầu viết vở cho gánh Trần Đắc rồi sang Đại Phước Cương qua Phụng Hảo rồi đi với gánh Con Tằm, sau đổi là gánh Năm Châu, rồi Việt kịch Năm Châu, soạn giả Trần Hữu Trang xây dựng cho mình một phong cách rõ rệt. Ông cũng viết chung với người khác một số vở. Dù viết chung, dấu ấn Tư Trang vẫn thấy rõ.

Tư Trang với Năm Châu vốn là anh em. Năm Châu là người dìu dắt Tư Trang vào sân khấu cải lương. Hai người lại cộng tác với nhau trong nhiều thời gian. Nhưng về quan niệm sáng tác, có những điểm Tư Trang không đồng ý với Năm Châu. Tư Trang thì thiên hẳn về quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh mà Năm Châu thì còn nhiều vấn vương với quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật.

Tư Trang bao giờ cũng cố gắng viết cho dễ hiểu, gần với quảng đại quần chúng. Khi tiếng tăm đã lừng lẫy rồi, soạn giả viết vở vẫn thường đọc để xin ý kiến mọi người từ diễn viên đến nhạc công. Ai khen chê điều gì, soạn giả đều nghe cẩn thận, suy nghĩ kỹ để sửa chữa. Có những vở đã được dư luận đánh giá rất cao, mặc dù vậy soạn giả vẫn gia công sửa cho tốt hơn. Thí dụ vở Đời cô Lựu.

Như các khán giả đã được xem diễn về Đời cô Lựu những năm 1936-1939 còn nhớ, khi Hai Thành từ Côn Đảo vượt ngục trở về gặp Hương lão, anh kể lại những nông nỗi mà anh đã phải chịu đựng 19 năm qua:

“Bác ơi! Thân tội tù, từ ngày rời bỏ cố hương, dày dạn nắng sương, cháu những ngỡ đâu đã đành cam vùi gởi nắm xương ngoài Côn Lôn hải đảo.

Nào hay trời đất hãy còn thương, dầu trải bao nỗi gian lao, chịu bao nhiêu cực nhọc mưa gió đổi thay mấy độ, mà ngày hôm nay còn trông thấy được chốn quê nhà.

Trọn 19 năm, khi đầu ghềnh khi cuối bãi, một tấm thân thui thủi nào biết ai giải tỏ nỗi ức oan, giọt huyết lệ chỉ rưới chan với thảo mộc sơn hà. Bách chiết thiên ma, tấm thân tiều tụy, cái phong độ ngày xưa đâu còn nữa. Đến bác đây là người quen thuộc mà bác cũng còn không nhận được, có lẽ khi về, hình dạng cháu đã già”.

Ngót 30 năm sau, soạn giả sửa lại như sau:

“Thưa bác,

Như cảnh ngộ của cháu đây,

Bỗng khi không phải vương lấy tội tù, mang một hận thù, rời bỏ cố hương, ngày đêm dày dạn nắng sương, cháu những tưởng đâu đã vùi gởi nắm xương ngoài Côn Lôn hải đảo.

Trải một khoảng thời gian chịu bao nỗi gian lao, nếm bao điều khổ nhục, mưa gió đổi thay mấy độ, những canh cánh bên lòng ngại lo cho hoàn cảnh của vợ con, cháu quyết tâm vượt muôn dặm trùng dương trở lại chốn quê nhà.

Bác ôi! Trọn 19 năm, khi biển cả mò nghêu khi rừng sâu đốn củi, một tấm thân thui thủi, nào biết cùng ai giải tỏ nỗi ức oan, giọt huyết lệ chỉ rưới chan với thảo mộc sơn hà.

Bách chiết thiên ma, tấm thân tiều tụy, cái phong độ ngày xưa đâu còn nữa. Đến bác đây là người quen thân nhứt mà bác còn không nhận được cháu, có lẽ vì hình dạng cháu hiện nay đã khô khan cằn cỗi trước tuổi già”.

So sánh hai đoạn trên, ta thấy soạn giả đã gia công sửa chữa cho ý rõ ràng hơn, lời trau chuốt hơn vì tính nhạc càng cao hơn.

Căn cứ vào tài liệu mà ông Nguyễn Văn Trí đã cung cấp, soạn giả Trần Hữu Trang và người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Chí Diểu đã có dịp gặp nhau trao đổi về quan niệm sáng tác “tả thực xã hội”. Những cuộc trao đổi này đối với soạn giả rất bổ ích. Hầu hết các vở của Trần Hữu Trang đều có giá trị “tả thực xã hội” sâu sắc. Trong giới soạn giả cải lương, cũng có thể nói trong giới nhà văn trước Cách mạng Tháng Tám – Trần Hữu Trang là một nhà văn có công góp phần giương cao ngọn cờ “tả thực xã hội” và kiên trì với đường lối sáng tác này, không bị ngả nghiêng vì những đợt gió đổi chiều trong xã hội.

Một bằng chứng hùng hồn là sau này có lần soạn giả Trần Hữu Trang viết về đề tài tôn giáo. Ấy là thời kỳ soạn giả đi với gánh Phước Chung. Từ năm 1952 về sau, soạn giả hầu như không soạn vở mới. Công việc chính của Trần Hữu Trang trong thời gian này là động viên hướng dẫn giới nghệ sĩ sân khấu phục vụ công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.

Lần này, để cổ vũ phong trào Phật giáo yêu nước chống chế độ gia đình trị của anh em Ngô Đình, ông soạn giả viết vở Mục Liên Thanh Đề. Khác với các loại “tuồng Tiên tuồng Phật” như khán giả đã xem trên sân khấu cải lương trước nay, ngòi bút của Trần Hữu Trang vẫn giữ vững phương pháp tả thực xã hội nghiêm túc khi thể hiện tính cách tham lam độc ác của nhân vật Thanh Đề qua những quan hệ với những người vay nợ, với kẻ ăn người ở trong nhà cũng như với xóm giềng. Cách khai thác đề tài của soạn giả không bị nhuốm màu sắc thần bí dị đoan. Rất tiếc là vì quá bận, soạn giả chỉ mới viết được một màn. Khi người khác viết tiếp, vở kịch không theo được chủ đích của soạn giả nữa.

Là một người xuất thân là lao động chân tay, soạn giả Trần Hữu Trang đến với sân khấu cải lương không vì ham danh vụ lợi mà vì yêu mến nghệ thuật. Ông là một trong số soạn giả hiếm hoi không chịu uốn ngòi bút vì áp lực của bọn cầm quyền, vì sự cám dỗ của tiền bạc hay vì những lời khen chê của công chúng nông nổi. Ông theo đuổi sân khấu cải lương với ý thức xây dựng phát triển nó ngày càng tốt trong kho tàng nghệ thuật dân tộc.

Soạn giả khẳng định nguồn gốc lành mạnh của cải lương. Ra đời trong chế độ cũ, cải lương đã bị bọn thống trị cấm đoán, lợi dụng, xuyên tạc và bọn tài chủ lũng đoạn biến thành món hàng kinh doanh thu lãi.

Mặc dù vậy vẫn còn có những soạn giả tiến bộ ra sức phấn đấu để sân khấu cải lương có được những vở tốt, mang nội dung chống xâm lăng, lên án xã hội bất công đồi trụy.

Nhận định đúng đắn này là kim chỉ nam giúp cho soạn giả giữ vững hướng đi, không bị lạc ở những ngã ba, ngã bảy như nhiều cây bút khác trong thời kỳ trước năm 1945, cũng như trong các vùng bị tạm chiếm sau này.

Lịch sử sân khấu cải lương đã cho thấy: Khi phong trào cải lương phồn vinh, các soạn giả đua nhau chạy theo hình thức; ngược lại sân khấu cải lương lâm vào tình trạng khó khăn, thì nhiều soạn giả tìm phương cứu vãn bằng cách tăng cường mặt hình thức. Những việc làm này gây tác hại lớn cho cải lương. Trần Hữu Trang luôn luôn nắm vững nguyên lý phát hiện hình thức là để thể hiện tốt nội dung. Soạn giả chú trọng nội dung, đồng thời cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của hình thức. Hai mặt này có quan hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau. Soạn giả nhận định: “Cải lương cần thấy đặc điểm của mình là ca kịch, do đó không nên chỉ đi vào những sự kiện sôi nổi dồn dập từ đầu đến cuối, mà nên khai thác đi sâu vào tâm tình, những diễn biến nội tâm để diễn tả tình cảm một cách tế nhị hơn”.

Lời ca, nét nhạc là những yếu tố căn bản của cải lương. Viết cải lương, mà không hiểu sâu nắm vững ca nhạc cải lương thì không thể nào hay được. Soạn giả Trần Hữu Trang nghiên cứu kỹ vấn đề này. Soạn giả đã nêu một số ý kiến rất xác đáng: “Trong tình cảm và điệu đàn, nó còn có những cái tế nhị hơn, ví dụ: buồn, có buồn nhiều, buồn ít; vui có vui nhẹ nhàng, lâng lâng hay vui rộn rã; giận, cãi vã có dứt khoát hay trả treo… Điệu đàn lại có khi đàn xuân thì vui, đàn ai thì buồn. Vì vậy trong tình cảm cũng như trong điệu đàn, có trường hợp ban đầu tính chất rõ ràng, mà có trường hợp có bản đàn khó mà phân biệt ranh giới tình cảm của nó một cách khẳng định hay dứt khoát được. Chỉ cần có điều dứt khoát được là không bao giờ đem bản đàn thuộc loại nhạc buồn não nùng vào cảnh vui rộn rã hay ngược lại. Còn giữa các điều vui ít, vui nhiều, buồn ít buồn nhiều, hoặc vui lâng lâng hay buồn man mác thì tuỳ từng sự việc, nghe từng bản đàn một cách cụ thể mà sử dụng rộng rãi, không nên gò bó hay khẳng định. Nhưng cũng nên tránh quá sơ lược và qua loa. Cần nghiên cứu từng bản một để đặt vừa mức cho mỗi trường hợp. Có làm đúng như vậy mới bảo đảm được việc sử dụng bài ca một cách hợp cảnh hợp tình”.

Tính chất của cải lương là vừa truyền thống vừa hiện đại. Cải lương mang tính truyền thống vì xuất phát từ dân ca, ca nhạc cổ của dân tộc. Nó hiện đại vì nó mới ra đời và trưởng thành khoảng trên nửa thế kỷ nay, không lâu đời như tuồng, chèo. Xác định rõ tính chất của cải lương như vậy, cho nên để phát triển nghệ thuật ca kịch cải lương, soạn giả Trần Hữu Trang đề ra phương hướng kết hợp làm sao cho nó “chẳng những ngày càng phong phú mà còn làm cho nó có cái phong cách thuần nhất của nó nữa”.

Làm như thế nào? Soạn giả giải đáp: xác nhận ca nhạc cổ là nguồn gốc, là căn bản của bộ môn ca kịch cải lương; tất cả các điều khác muốn đưa vào đều phải nghiên cứu cải biên, nâng lên sao cho hỗn hợp làn điệu, đừng chỏi với ca nhạc cổ là dùng được. Sáng tác những bản nhạc làn điệu hoà hợp với nhạc cổ, làm nhạc nền cho một buổi diễn cải lương, theo soạn giả, là tốt.

Trước và đồng thời với soạn giả Trần Hữu Trang, có những soạn giả đã nhập cảng vào sân khấu cải lương nhiều bản nhạc Trung Quốc gọi là bài Quảng, bài Tiều, những bài hát lời Việt Nam điệu Tây (thí dụ: J’ai deux amours, Arthur, C’est poun mon papa), những bài hát Nhật (như Nuit chinoise, Tô Châu dạ khúc). Lại có những bản đàn ngắn mới sáng tác, thí dụ soạn giả Mộng Vân đã sáng tác những bài Giang tô, Thu phong nguyệt, Sương chiều, Tú Anh, Nặng tình xưa…Những tìm tòi này có ít nhiều thành công và có những kết quả đáng trách. Cái lối “ăn sống nuốt tươi” thiếu nghiên cứu, chọn lọc những bản nhạc ngoài làm cho sân khấu cải lương trở nên lai căng, hỗn tạp.

Soạn giả Trần Hữu Trang cũng có nghĩ đến việc làm cho những phương tiện biểu hiện của sân khấu cải lương phong phú hơn. “Khai thác được những tiềm năng nghệ thuật trong yếu tố thi, ca, nhạc là hoài bão lớn của tôi”. Soạn giả đã từng tâm sự với nghệ sĩ Ba Du như vậy. Cách làm của ông rất thận trọng. Thí dụ trong vở Lan và Điệp, soạn giả đã đưa điệu thơ mới vào. Đó là lúc Lan chôn hoa và xác bướm trong sân chùa. Soạn giả để Lan ngâm một đoạn thơ mới mở đầu cho bản Nam ai.

Than ôi! Cánh hoa rụng tả tơi vì gió dập

Xác bướm khô ôm ấp bởi tình yêu

Nhìn hoa lan ruột xót trăm chiều

Trông hồ điệp lệ dòng tuôn mấy lượt

Kìa những kẻ không cầu sao lại được

Tủi phận mình mong mỏi vậy mà sai

Chốn am mây chôn lấp mạch cảm hoài

Nghe kinh kệ phôi phai cơn sầu muộn

(ca Nam ai)

Hoa Lan xác bướm mảnh tơ lòng

Đành vùi chôn kiếp bướm hoa lỡ làng rồi…

***

Diễn viên ngâm đoạn thơ trên, nhưng không ngâm như điệu ngâm thơ ở miền Bắc hay điệu ngâm “Tao đàn” ở đài Sài Gòn mà vận dụng từ đài bằng cách nói theo làn điệu của nhạc cổ với câu chót rồi bắt qua đầu lớp Nam ai, thì người nghe thấy rất êm không chỏi với nhạc cổ chút nào.

Gần bốn chục năm làm nghệ thuật, soạn giả Trần Hữu Trang gặt hái được những thành công vững vàng và không vấp phải thất bại, ấy là do phương pháp làm việc khoa học, nghiêm túc. Sau này, soạn giả phát biểu về kinh nghiệm của mình: “Các bộ môn nghệ thuật phản ánh cuộc sống không thể đứng yên mà cần có sự phát triển, nhất là về hình thức để có thể bảo đảm thể hiện nội dung. Đây là công việc làm từ từ, đòi hỏi thời gian, không thể đứng yên mà cần có sự phát triển, nhất là về hình thức để có thể bảo đảm thể hiện nội dung. Đây là công việc làm từ từ, đòi hỏi thời gian, không thể nôn nóng, không thể có sự thay đổi nhanh chóng gò bó hoặc thúc ép trong một lúc tuỳ theo ý muốn chủ quan được”.

Trần Hữu Trang đã soạn trên dưới ba chục vở cải lương. Những vở này hầu hết được sáng tác từ khoảng 1930 đến 1952. Cuối đời, ông có bắt tay soạn một vở về người thợ điện anh hùng Nguyễn Văn Trỗi. Ông rất say sưa công việc này. Soạn giả đã viết hai màn và rất hài lòng. Những người được soạn giả đọc cho nghe đều đánh giá cao sáng tác mới này. Tiếc thay, soạn giả chưa kịp hoàn thành tác phẩm, thì đã hy sinh.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), soạn giả ít viết vì do yêu cầu cách mạng, ông tham gia hoạt động chính trị nhiều hơn.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Trần Hữu Trang được giao nhiệm vụ ở lại Sài Gòn làm công tác vận động trí thức, văn nghệ sĩ. Cùng với Năm Châu, Trần Hữu Trang tổ chức gánh Con Tằm, gánh Năm Châu rồi gánh Việt kịch Năm Châu. Về mặt công khai, gánh hát cố gắng tìm cách trình diễn những vở có nội dung yêu nước tiến bộ: Tuyết băng và bạo lực, Nợ dâu, Một tối tân hôn, Chiếc áo thiên nga, Tây Thi gái nước Việt… Nơi ấy cũng là cơ sở bí mật để tập hợp lực lượng hướng về  kháng chiến, là nơi liên lạc, cư trú của cán bộ. Trong điếu văn của Tám Danh có đoạn viết: “Hồi đầu kháng chiến, vì anh được đoàn thể phân công lại Sài Gòn công tác, giữ vững ngọn cờ yêu nước trên sân khấu thành đô, anh em mình phải tạm biệt chia tay. Năm 1949, cấp trên giao nhiệm vụ, tối có dịp tìm gặp anh ở Sài Gòn, nửa tháng trải qua bao lần nguy khốn, đều được anh bảo vệ, che chở giữa chỗ hang hùm miệng sói, giúp tôi làm tròn trọng trách, kết quả gấp mấy lần hơn mức yêu cầu. Những năm gian khổ ấy, sân khấu bưng biền Đồng Tháp mang nặng tình anh biết mấy…”.

Năm 1948, nhờ vào uy tín của soạn giả Trần Hữu Trang mà Hội Nghệ sĩ ái hữu được thành lập. Nữ nghệ sĩ Phùng Há, người giữ chức hội trưởng nhiều khoá, cộng lại tới 17 năm, có lần từ chối muốn để người khác làm, vì nữ nghệ sĩ cho rằng mình kém khả năng văn hoá và chính trị. Soạn giả Trần Hữu Trang thuyết phục: “Không được. Cô cứ phải trấn giữ chỗ này mới được”.

Soạn giả nói vậy, Nghệ sĩ Phùng Há hiểu và yên tâm làm việc. Đến năm 1957, Trần Hữu Trang lại vận động thành lập Nghiệp đoàn nghệ sĩ công nhân sân khấu. Nghiệp đoàn làm được một số việc để bảo vệ quyền lợi chính đáng của nghệ sĩ và công nhân như: ấn định nguyên tắc và giá biểu bản quyền, bồi thường cho đào kép hát thất nghiệp, đòi hỏi nghệ sĩ và công nhân quyền tham dự ban quản trị, phản đối bọn quyền hành địa phương áp chế nghệ sĩ…

Trần Hữu Trang ở lại công tác trong nội thành nhưng các con gái, con trai mình thì ông đều cho đi kháng chiến. Hai con gái của soạn giả là Đề và Đạm hoạt động trong phong trào phụ nữ Mỹ Tho. Con trai lớn của ông là Trần Hữu Thế đã chiến đấu và hy sinh ở Chiến khu Đ năm 1952. Người con trai út của soạn giả là Việt Thường sau này cũng hoạt động nội thành.

Sống dưới chế độ Mỹ Diệm, soạn giả rất đau xót và bất bình vì tình cảnh của các diễn viên, soạn giả sân khấu: “Ai cũng say sưa với nghề nghiệp, nhưng khổ nỗi hoàn cảnh luôn luôn đi ngược với hy vọng dầu là hy vọng nhỏ nhoi nhất”. Có đến bảy thứ thuế đè nặng trên đầu các đoàn hát. Biết bao nghệ sĩ và công nhân “chỉ lãnh lương cà phê cầm hơi hay hoàn toàn thất nghiệp khoanh tay ngồi ở đình Tân Kiều, Tân An”. Lại còn nạn “cọp” hoành hành nhiều khi gây thương tật hay chà đạp lên nhân cách các nghệ sĩ. Tư Trang thường nói: “Nghệ sĩ là kiếp con tằm dầu thác vẫn còn vương tơ”. Nhưng sự thật ở miền Nam hiện nay quá phũ phàng: “Tằm không có lá dâu”. Soạn giả từng thảo luận thâu đêm với các bạn về tương lai của sân khấu, về tiền đồ của nghệ sĩ.

Cuối năm 1960, cuộc kháng chiến quả quân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, quyết liệt hơn. Trần Hữu Trang bỏ Sài Gòn ra ngoài chiến khu để xây dựng lực lượng văn nghệ giải phóng. Khi ấy, soạn giả 55 tuổi, mắc bệnh đau ruột, công việc bận rộn và đời sống đạm bạc đã khiến cho sức khoẻ của ông giảm sút nhiều. Nhưng ông vẫn hăng hái làm nhiệm vụ mới. Với tư cách là Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng, Uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, soạn giả cặm cụi làm việc dưới mái lán lợp lá trung quân, dưới ánh đèn chai leo lét trong rừng già, hăng hái xông pha – mặc dù chân bên trái bị đau nhiều – trên những con đường mòn đầy dây kim cương và cây mắc cỡ. “Văn nghệ của chúng ta chẳng những là vũ khí sắc bén không thể thiếu được để đánh địch mà còn có nhiệm vụ cao quý là thể hiện tính chất, phong cách của con người miền Nam ngoan cường, dũng cảm chiến đấu không ngừng với một niềm lạc quan tin tưởng nhất định thắng lợi”. Đích thân soạn giả đã thể hiện tính chất ấy, phong cách ấy.

Từ chỗ là một người lao động bình thường, trở nên một nhà văn, một soạn giả, vì tấm lòng yêu mến nghệ thuật dân tộc, yêu thương những người nghèo khổ bị áp bức đọa đày. Từ chỗ là một nghệ sĩ chiến đấu bằng ngòi bút tiến lên thành một nghệ sĩ chiến sĩ cách mạng đấu tranh giữ vững ngọn cờ văn nghệ yêu nước và xã hội chủ nghĩa, soạn giả Trần Hữu Trang đã sống trọn cuộc đời một nghệ sĩ chân chính. Thân thế, sự nghiệp ông là tiếng gọi, là niềm cổ vũ cho giới văn nghệ nói chung và đặc biệt đối với các nghệ sĩ sân khấu.

“Nay đồng chí Trần Hữu Trang không còn nữa. Nhưng những việc làm dở dang của đồng chí, những người làm cải lương chúng tôi nguyện tiếp tục phấn đấu, góp phần nhỏ của giới sân khấu, đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ cướp nước”.

Đó là điều tâm nguyện của nghệ sĩ Ba Du, người bạn cố tri đối với soạn giả Trần Hữu Trang.

Và đây là lời nghệ sĩ Kim Xuân, thuộc thế hệ đi sau: “Nhớ thương người nghệ sĩ lão thành, giới sân khấu cũng như anh chị em văn nghệ sĩ nguyện học tập tinh thần anh dũng bền bỉ chống đế quốc Mỹ, và tinh thần tận tụy yêu nước, yêu nghề của bác. Chúng cháu nguyện đem hết sức mình làm cho nghệ thuật nước nhà ngày càng phát triển xứng đáng là nền nghệ thuật ưu tú của một nước độc lập tự do”.

Tên tuổi soạn giả Trần Hữu Trang thật xứng đáng được ghi trân trọng trong lịch sử văn học và lịch sử nghệ thuật sân khấu Việt Nam.

Tư trang với đoàn Phước Chung(*)

Trong phong trào kháng chiến chống xâm lược Pháp của Nhân dân Nam Bộ, Trần Hữu Trang cùng với số đông nghệ sĩ cải lương khác đã tham gia đội ngũ hoạt động trên nhiều vị trí và địa bàn khác nhau: Năm Châu, Tư Trang, Tám Danh, Ba Du, Bảy Vân, Triệu An, Năm Thanh Hương, Ngọc Trai… vào chiến khu miền Đông, miền Trung, miền Tây Nam Bộ.

Để tạo được cơ sở hoạt động hợp pháp tại Sài Gòn và các vùng đô thị, các nghệ sĩ Năm Châu và Tư Trang đã thành lập ban “Việt kịch Năm Châu”, một kiểu đoàn hát cải lương không phải của tư nhân mà do tập thể quản lý, dần dà tạo được những cơ sở tập hợp và tương trợ trong giới cùng nghề nghiệp như Hội Nghệ sĩ, Ái hữu (1948) trụ sở tại đường Cô Bắc, Quận 1, Sài Gòn; khu nhà tập thể của diễn viên và công nhân sân khấu gồm hai dãy trại 14 căn tại dốc cầu Bông (Gia Định), từ năm 1956 thường gọi là trại Phước Chung. Toàn bộ những cơ sở trên đây đều là địa bàn hoạt động cách mạng của nghệ sĩ Năm Châu và soạn giả Trần Hữu Trang, nơi đào tạo và tiếp nhận một đội ngũ cán bộ kháng chiến trong giai đoạn chuyển tình thế sau này.

Với chương trình tiết mục khá phong phú, đặc sắc do hai soạn giả tài năng là Năm Châu và Tư Trang chủ biên: Tây Thi gái nước Việt, Người với người, Miếng thịt người, Thái tử Hàm – Lệ (Hamlet), Tìm hạnh phúc, Đời cô Lựu, Hậu chiến trường, Tấm lòng trinh… đoàn Việt kịch Năm Châu đã khêu gợi trong tâm tưởng công chúng thời bấy giờ ý thức dân tộc, lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh chống áp bức bạo tàn, chống bất công.

Mặc dầu tồn tại và hoạt động trong những điều kiện không ít khó khăn, gian khổ, cuộc sống hằng ngày thường khi bữa đói bữa no, sáng xôi chiều cháo, thường xuyên diễn ở đình Phú Hoà, gánh Việt kịch Năm Châu dưới sự dẫn dắt của đồng chí Nguyễn Văn Hiếu (sau này Bộ trưởng Bộ Văn hoá và Thông tin) và của hai soạn giả cách mạng cũng những cơ sở nòng cốt khác vẫn chú trọng công tác giáo dục nội bộ, thực hiện tác phong sinh hoạt “đời sống mới” (ăn cơm dùng đũa hai đầu, không cờ bạc hút xách hoặc rượu chè be bét…).

Tất cả những cơ sở và điều kiện đặc biệt trên đây là tiền đề cho mỗi phong trào đấu tranh chính trị khá sôi nổi và đầy khí thế vào những năm 1955-1957 sau Hiệp định Giơ-ne-ve mà dư âm vang vọng của nó vẫn không dứt, vẫn tác động sâu sắc đặc biệt trong giới sân khấu cải lương ở miền Nam.

Tháng 7/1945, tiếng súng kháng chiến vừa dứt, thì ở Sài Gòn, cuộc chiến đấu mới đã tiếp diễn ngay trên các đường phố và trên sân khấu cải lương. Sự đột nhập về thành phố của một số đông cán bộ kháng chiến hoạt động văn hoá nghệ thuật đã tạo ra một khí thế ồ ạt. Khán giả Sài Gòn – Chợ Lớn được thưởng thức những chương trình ca múa, với các tiết điệu kháng chiến.

1955, tập thể gánh Việt kịch Năm Châu đã thực hiện đấu tranh với ngụy quyền chống thủ đoạn đốt nhà, đuổi dân chiếm đất ở Năng-xin. Và sau đó, vở cải lươngNgười mặt cháy từng trình diễn trên sân khấu “Chiến khu xanh”, lần đầu tiên ra mắt công chúng thành phố, liền bị chính quyền Ngô Đình Diệm chú ý. Có lần, chúng huy động lực lượng cơ giới bao vây rạp Nguyễn Văn Hảo khi ở đây một chương trình ca vũ của Việt kịch Năm Châu được khán giả hoan hô sôi nổi. Bọn thống trị vừa mới lên ngôi bắt giam và hăm dọa rúng ép nghệ sĩ Năm Châu và cha con người quản lý Trần Văn Kiết.

Tình hình đến mức khẩn trương, chi bộ Đảng Cộng sản, linh hồn của đoàn, gồm một số soạn giả, nghệ sĩ, cán bộ quản trị, bàn kế hoạch đối phó chống âm mưu của ngụy quyền. Sau khi dựng tiếp thêm vở Người nghèo trong khói lửa của Phạm Trần (tức Phi Vân, soạn giả, đảng viên Đảng Cộng sản, con rể đồng chí Tư Trang, hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ ngày 19/6/1966), Nghệ sĩ Năm Châu buộc phải lánh mặt, rời đoàn và hoạt động trong phong trào hoà bình do các đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Hiếu, Mã Thị Chu lãnh đạo. Đầu năm 1960, gánh Việt kịch Năm Châu, không có Năm Châu, ở vào một tình thế bức bách, trước hai con đường và hai phương án lựa chọn: hoặc là giải tán, chạy dài hoặc là đối đầu với khủng bố, gian nguy và tù tội. Trong một phiên họp do đồng chí Tư Trang chủ trì, đa số anh chị em cán bộ và nghệ sĩ chọn con đường hành động cách mạng vì sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, và tập thể quyết định đổi bảng hiệu Việt kịch Năm Châu thành Phước Chung.

Nhưng sau đó, do nội dung chính trị tư tưởng của các vở Người nghèo trong khói lửa và Người mẹ hiền, không bao giờ được chánh quyền Ngô Đình Diệm để yên cho diễn tại Sài Gòn, đoàn Phước Chung phải mở đường lưu diễn miền Trung.

Thời gian ấy, miền Trung gặp mưa lũ lớn, việc di chuyển đối với một gánh hát nhỏ thật là vất vả không kém những gian khổ thuở 9 năm chống Pháp. Nhưng với tinh thần tập thể chiến đấu, với tác phong của những con người chiến sĩ nghệ thuật được giác ngộ cách mạng ở mức độ nhứt định, Phước Chung đã gieo được những ấn tượng tình cảm tốt đẹp trong Nhân dân các vùng thị xã, thị trấn và đặc biệt là các vùng nông thôn kháng chiến cũ.

Năm 1957, Phước Chung lại ra mắt khán giả Sài Gòn với một loạt vở mới có nội dung tiến bộ được đông đảo công chúng ưa thích: Nhuỵ hoa lan, Bạo chú Huy Linh, Cây tương tư, Chị chồng tôi, Gió ngược chiều, Thủ cấp của ai, Giờ thức tỉnh. Vở Nhuỵ hoa lan của soạn giả Mai Quân (sau này là Phó Tổng thư ký Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh) bị tên bồi bút của chính quyền Diệm là Vũ Bắc Tiến tấn công dữ dội bằng hàng loạt bài báo trên báo Sài Gòn. Để tránh sự khủng bố của địch xem Phước Chung là đội ngũ “Văn nghệ nằm vùng” của Cộng sản, đoàn đã né xuống miền Tây và trở ra miền Trung (Trung Bộ) lần nữa.

Trở lại Sài Gòn 1959, mặc dầu lúc này chánh quyền phát xít Ngô Đình Diệm phản kích điên cuồng phong trào cách mạng, với nữ diễn viên Lan Chi, người được giải Thanh Tâm 1959, Phước Chung lại tái diễn một màn của Nhuỵ hoa lan. Địch ra tay khủng bố tìm bắt soạn giả Trần Hữu Trang, giam giữ soạn giả Phạm Trần. Đi miền Trung lần thứ ba trong vòng hai năm, Phước Chung dựng liên tiếp những vở có nội dung nêu cao tinh thần yêu nước truyền thống dân tộc đậm nét hơn:Hồn thiêng sông núi, Vì tôi là người Việt, Lối về Nhựt Tảo (1962)…

Năm 1960, đồng chí Trần Hữu Trang, do yêu cầu của tình hình cách mạng phát triển, đã ra vùng giải phóng tham dự Đại hội thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960), được bầu vào Uỷ ban Trung ương Mặt trận và sau đó, nhận nhiệm vụ Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng. Một số cán bộ đảng viên không còn điều kiện hoạt động công khai hợp pháp, được lịnh “điều lắng” phải chuyển vùng, chuyển hướng công tác hoặc được rút vào chiến khu: Ba Thanh Loan (1962), Bảy Vân, Chín Châu, Ba Thừa Vĩnh, Việt Nhân, Nguyên Mỹ (1963), các soạn giả Phong Anh, Phạm Trần tức Phi Vân (1964)… và cùng vào thời điểm này còn có cả một số nam nữ nghệ sĩ cải lương ở các đoàn khác nữa: Thanh Hùng, Ngọc Hoa, Cẩm Vân tức Mỹ Ngọc (1964)… Như vậy, mặc nhiên, Phước Chung bớt hẳn đi một lực lượng thành viên trụ cột già dặn, trung kiên đáng kể, nhất là vào lúc văn hoá thực dân mới tiếp tục ập vào mạnh mẽ, theo chân quân đội viễn chinh Mỹ. Phước Chung nếu trước đây có vai trò như một pháo đài tấn công, một mũi đột kích về văn hoá và tư tưởng ngay giữa lòng địch, thì ở giai đoạn này, nó phải chiến đấu vật lộn vất vả nhiều mặt để tồn tại vì ngay những đại ban cải lương khác như Thanh Minh – Thanh Nga, Hương mùa thu, Dạ lý hương, Út Bạch Lan – Thanh Được, Kim Chưởng… mặc dù có lú bố lên như diều gặp gió, nhưng cuồng phong bão táp của văn hoá Mỹ đã dấy lên dang rộng đôi cánh tàn bạo của nó, mở đầu cho một thời kỳ nguy khốn nhất của sân khấu cải lương, của nền nghệ thuật dân tộc nói chung.

Từ những năm 65, 66, 67 rồi 68, 69 (thế kỷ XX), đồng chí Trần Hữu Thường với bí danh Mười Bền và tên công khai là soạn giả Anh Thế, kế tục sự nghiệp Phước Chung của cha và các anh chị (Phạm Trần, Trần Thị Đề, Thanh Đạm) cùng với các đồng chí trong chi bộ Phước Chung, tính đến lúc này đã mấy phen “lột xác”, lèo lái gánh hát trong những điều kiện hết sức ngặt nghèo: (Chi bộ Đảng lúc này còn vỏn vẹn mấy đồng chí: Ba Việt (tức soạn giả Phi Hùng) và chị Hai Nữ. Với sự tiếp trợ của các đồng chí Tùng Linh, Hoài An (tức Trương Bỉnh Tòng), Mai Quân, đoàn dựng thêm một số vở: Mông Kha đại đế, Cù Thị Ai Vương, Trăng soi đầu máu.

Trước nguy cơ văn hoá nô dịch, phản động và đồi trụy do Mỹ ngụy truyền bá, khu uỷ Đảng Cộng sản Việt Nam khu Sài Gòn – Gia Định chủ trương phát động phong trào bảo vệ văn hoá dân tộc (1966), được đông giới trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên học sinh hưởng ứng. Đồng chí Việt Thường và ban lãnh đạo Phước Chung, đã đưa gánh hát hăng hái vào trận, phát huy tác dụng của Hội Nghệ sĩ Ái hữu và tạo uy tín chính trị của gánh hát trong giới sân khấu.

Vào thời gian này, (1966) đội ngũ văn nghệ, sân khấu vùng giải phóng và lực lượng cải lương thành phố chịu liên tiếp những tổn thất đau đớn nhất, đó là trường hợp hy sinh do bom B52 của Mỹ: đồng chí Trần Hữu Trang, các đồng chí Bảy Vân, Phạm Trần, Phong Anh và Nguyễn Ngọc Cung.

Riêng đối với Phước Chung và với những “Nghệ sĩ tiền phong” (Năm Châu, Bảy Phùng Há, Ba Vân, Tám Danh, Ba Du, Bảy Nam…) thì những mất mát ấy càng không có gì bù đắp được.

Sau Tết Mậu Thân 1968, tình hình miền Nam trải qua những biến đổi lớn. Cuộc chiến đấu giữa cách mạng và xâm lược phản động cài thế ác liệt, đòi hỏi lực lượng nghệ sĩ yêu nước tiến bộ phải vận dụng những hình thức đấu tranh mới.

Tháng 2/1969, Phước Chung hoàn thành nhiệm vụ lịch sử với 18 năm tồn tại dai dẳng.

Việt kịch Năm Châu (1948-1956) rồi Phước Chung (1956-1969) là hiện tượng khá đặc biệt của lịch sử sân khấu đất nước. Đây là hình ảnh những hoài bão quý nhất của nghệ sĩ Tư Trang, một gương mặt rạng rỡ nhất trong những gương mặt rạng rỡ của nghệ thuật sân khấu cải lương.

Nó là biểu hiện ý chí kiên cường, tính kỷ luật chiến đấu cách mạng của những nghệ sĩ được giác ngộ và tình nguyện đi theo Đảng Cộng sản với tất cả bầu nhiệt huyết không một ngày vơi cạn, với một nội tâm dạt dào được phát lộ nhuần nhuyễn, tinh vi và bén nhạy bằng mọi hình thức và ngôn ngữ đặc biệt của giới mình vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trần Hữu Trang và cuộc xung đột mới – cũ

Vào những năm đầu của thế kỷ, nhất là từ sau đại chiến thế giới thứ nhất ở nước ta diễn ra một cuộc xung đột “ mới – cũ” khá kịch liệt.

Nguyên do là đế quốc Pháp tuy thắng trận nhưng đã bị thua thiệt nặng về các mặt công nghiệp, nông nghiệp và tài chính. Để hàn gắn vết thương chiến tranh và nhanh chóng khôi phục địa vị của mình trong thế giới tư bản chủ nghĩa, Pháp mở rộng công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương.

Năm 1920, Bộ trưởng thuộc địa Pháp là An-be – Xa-rô (Albert Sarraut), nguyên Toàn quyền Đông Dương trước và trong chiến tranh, tuyên bố: “Lãnh vực thuộc địa ngày nay có thể trở thành một trong những nhân tố chủ yếu của sự khôi phục kinh tế và tài chính của chúng ta”.

Phục vụ cho chính sách bóc lột kinh tế và để trấn an người dân thuộc địa, chính sách văn hoá giáo dục của thực dân đã được thực hiện trên một quy mô rộng lớn theo một kế hoạch mạnh mẽ hơn trong các trường học mọi cấp, trên báo chí và bằng mọi hoạt động văn hoá khác.

Mấy lời nói đầu của Tạp chí Nam Phong số 1 chỉ rõ: Mục đích của Nam Phong là thể hiện các chủ nghĩa khai hoá của Nhà nước, biên tập các bài bằng Quốc ngữ, Hán văn và Pháp văn để giúp sự mở mang trí thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An Nam, truyền bá các khoa học của thái tây, nhất là học thuật tư tưởng của đại Pháp.

Hội Khai trí tiến đức được thành lập với mục đích “truyền bá trong quốc dân An Nam học thuật và tư tưởng của đại Pháp”.

Sự xâm nhập của văn hoá tư tưởng tư sản, thực dân là nguyên nhân gây ra cuộc xung đột “mới – cũ”.

Trên lĩnh vực văn học – nghệ thuật, cuộc xung đột đó diễn ra ồn ào nhất. Những người chủ trương theo mới thường là những người thuộc giai cấp tư sản, tiểu tư sản.

Khi chiến tranh thế giới 1914-1818 bùng nổ, công nghiệp và thương nghiệp ở Đông Dương chủ yếu hướng về phục vụ chiến tranh ở chính quốc. Chính quyền thuộc địa ở Đông Dương lúc này buộc phải nới rộng thể lệ nguyên tắc kinh doanh khiến cho tầng lớp tư bản xứ được phát triển ít nhiều.

Mặt khác, tư bản các nước khác có mặt ở thị trường Viễn Đông lúc này cũng có dịp len vào cạnh tranh với tư bản Pháp, và các nhà công thương Việt Nam nhờ đó có thể mở rộng kinh doanh với bọn họ. Trong những điều kiện mới ấy của lịch sử, tầng lớp tư sản Việt Nam có đà vươn mạnh lên hơn trước. Như thế là trong và sau chiến tranh, giai cấp tư sản Việt Nam hình thành rõ rệt.

Mặt khác, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị Việt Nam cũng phát triển gồm các nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương, những người làm việc ở các công tư sở và những người làm nghề tự do khác. Trong chiến tranh, hàng hoá ở thị trường Việt Nam trở nên khan hiếm. Do đó, một số tiểu công nghệ trước đây bị chế độ độc quyền của thực dân bóp nghẹt, nay được hồi phục trở lại.

Sự phát triển đáng chú ý nhất là số công chức, trí thức và sinh viên học sinh từ các trường ra. Do nhu cầu đào tạo người giúp việc trong bộ máy cai trị, bọn thực dân phải mở thêm nhiều trường học. Các trường học Nho, những khoa thi Hương, thi Hội bị bãi bỏ.

Từ năm 1915, bọn thực dân mở rộng các Trường Tiểu học Pháp Việt. Tháng 5/1918, chính quyền thực dân lại ban hành “Học chính tổng quy”, thành lập các trường tiểu học ở các tỉnh, huyện. Năm 1906, chúng mở trường đại học, đến năm 1907 thì đóng cửa, và đến năm 1912 mở lại. Do đó, hàng ngũ trí thức, sinh viên, học sinh đông lên nhiều.

Tiếp xúc với văn hoá phương Tây, nhất là văn hoá Pháp, họ thấy chủ nghĩa cá nhân được đề cao, những quyền tự do cá nhân được bệnh vực, trái với sự gò bó, khắt khe của luân lý, đạo đức, lễ giáo phong kiến là những thứ trói buộc, ngăn cấm người học đủ điều, không cho họ phát triển tự do theo nguyện vọng, yêu cầu của họ.

Trông người lại ngẫm đến ta, họ thù ghét những thứ đó, đã phá những thứ đó. Họ tuyên bố những thứ cũ đó cổ hủ lắm rồi. Ở các nước, người ta đâu sống như vậy. Phải phế bỏ tất cả những cái cũ này đi để theo cái mới, theo văn minh Âu Mỹ.

Một lĩnh vực mà cuộc xung đột mới – cũ diễn ra sôi nổi là lĩnh vực tình yêu, hôn nhân, gia đình.

Những người theo mới thấy ở các “nước văn minh”, người ta chủ trương tự do luyến ái, trai gái đến tuổi mới lớn không có quyền yêu nhau theo ý muốn. Trái lại, theo luân lý cũ, tình yêu bị cấm đoán: “Nam nữ thụ thụ bất thân”. Yêu nhau là có tội. Trai gái nói chuyện yêu đương với nhau thì bị chê bai là tuồng “trên bộc trong dâu”. Thật là vô lý. Cái kiểu luân lý bóp nghẹt tình cảm ấy không thể duy trì được.

Nhà thơ Lưu Trọng Lư đã phát biểu rất thiết tha, hùng hồn: “Ta phải đi tìm những tình cảm mới mẻ. Thì sự thật ngày nay ta được tiếp xúc với văn hoá Âu Tây, với những thực trạng mới lạ, không phải tìm, ta cũng đã có những tình cảm mà cha ông ta không có… Nhìn một cô gái xinh xắn ngây thơ, các cụ coi như là đã làm một điều tội lỗi, ta thì cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh ngắt.

Cái ái tình của các cụ thì chỉ là một sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình, muôn trạng, cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, gái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình chân thật, cái tình ảo mộng, cái tình ngây thơ, cái tình già dặn, cái tình trong giây phút, cái tình nghìn thu”. (Tiểu thuyết thứ Bảy, 1/12/1934).

Những người theo mới, công kích cái kiểu hôn nhân không đặt trên cơ sở tình yêu mà là chuyện gả ép “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Điều kiện quyết định là phải “môn đăng hộ đối”. Việc dựng vợ gả chồng là chuyện của hai gia đình, chứ không phải của hai người sẽ thành vợ chồng. Ý kiến của đôi trai gái hoàn toàn không được coi trọng, thậm chí không được hỏi đến nữa. Hai người sau khi lấy nhau có hạnh phúc hay không, không là vấn đề quan trọng.

Những người theo mới không tán thành chủ nghĩa đại gia đình, trong đó quyền lợi con cái không được bệnh vực. Chữ “hiếu” xiềng xích những người con vào bổn phận đối với gia đình. Và chữ “tiết hạnh” trói chặt những người vợ vào bổn phận đối với chồng, dù khi người chồng đã chết rồi, chồng chết theo con.

Năm 1925, cuốn tiểu thuyết Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách ra đời. Tố Tâm được miêu tả như một nạn nhân đáng thương của luân lý cũ: “Đây là mồ một người bạc mệnh chết vì hai chữ ái tình”. Đọc Tố Tâm, rất nhiều nam nữ thanh niên hồi đó khóc sướt mướt. Nhưng những người chủ trương theo Mới vấp phải sự kháng cự không phải không mạnh mẽ của những người bảo thủ.

Những người này chống lại, nhân danh bảo vệ quốc hồn, quốc tuý, quốc hoá của dân tộc. Họ phê phán những người chủ trương theo Mới là mất gốc, là vô luân. Cuộc tranh luận thường đi đến chỗ kịch liệt, biến thành một cuộc cãi lộn và như trong mọi cuộc cãi lộn, hai bên không ngần ngại dùng đến cả những lời lẽ cay cú nặng nề với nhau.

Vụ Trang Tử cổ bồn trên sân khấu cải lương là một dẫn chứng. Sự việc thế này: Ngày 31 tháng 7 và ngày 1 tháng 8 năm 1972, một nhóm các bà, các tổ chức trình diễn tại rạp Cải lương hí viện ở Hà Nội, vở Trang Tử cổ bồn để lấy tiền giúp dân bị lụt.

Vở Trang Tử cổ bồn của soạn giả Nguyễn Đăng Phong là một vở đề cao cương thường đạo lý nhằm phê phán người vợ Trang Tử, chồng chết chưa ráo mồ đã toan đi lấy chồng khác. Vở này, các sinh viên cao đẳng Nam Kỳ đã diễn năm trước và được hoan nghênh. Như vậy rõ ràng là không phải vì nội dung vở diễn, cũng không phải vì ác cảm với cải lương mà khá nhiều người cực lực công kích hai tối diễn 31 tháng Bảy và mồng 1 tháng Tám.

Người ta công kích vì vấn đề phụ nữ lên sân khâu hát cải lương, cho thế là một sự tự do quá trớn, là vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo dân tộc, là học đòi Âu Mỹ. Trong một bài báo có đoạn viết: “Ôi! Cũng nhờ vì các pho gia huấn tối quý của tổ tiên mà sinh sản biết bao liệt nữ, tiết phụ, đào tạo được bao nhiêu mẹ hiền, dâu thảo. Thế mà nay có kẻ dám khinh nhờn, hạ bút chê bai, các cụ ở dưới cửu tuyền ắt đau lòng lắm nhỉ.

Anh chàng bạch diện kia, đang lúc cao hứng, thuận tay thảo ngay một “chương trình cải lương nền giáo dục luân lý” bọn phụ nữ vẽ bày, tô điểm một cảnh gia đình một người phụ nữ ta ở vào thế kỷ thứ 20 này, cũng mở xa lông tiếp khách, cũng giao thiệp với xã hội như thể đàn bà Âu Mỹ.

Ấy tự do bọn nữ lưu cảm về bài đại luận ấy nay cải lương cái này, mai cải lương cái khác, rút lại đi đâu cũng thấy cải lương cả. Thế thời nay mai bọn khuê các dám công nhiên “vác mặt” ra sân khấu, cũng là nhờ về bài văn châu ngọc của anh chàng kia một phần to vậy…

Than ôi! Người khuê các là con nhà tử tế, ông cha đều không dám làm điều gì điếm nhục gia phong tưởng rằng con cháu lại vẻ vang rực rỡ thêm lên, ngờ đâu lại đem tên họ ra giẫm xuống nơi đất bùn, ắt các cụ cũng không khỏi đau lòng vậy. Nay biết bao đấng mẫn thế ưu thời, thấy nền phong hoá ngày một suy, còn đau lòng lo phương cứu vãn, thế còn có kẻ đã mưu phá hoại đáng giận biết chừng nào”.

Một bài báo khác viết: “Các cô đã bạo ví mình với các cô nữ lưu khuê các Lang Sa mà bắt chước ra diễn đàn mà múa may quay cuồng cô cho là phải, vậy chớ sao các cô không bắt chước các cô “nữ lưu khuê các Âu châu” người ta hiểu thấu tới nguồn gốc hai chữ ái tình, biết phân biệt hai chữ ái tình, nên mới em gái hôn anh giai, em giai hôn chị gái, anh rể hôn em vợ, em chồng hôn chị dâu ngoài đường, vợ chồng gặp nhau nơi bến tàu cũng hôn nhau, vậy thì các cô có cái can đảm bắt chước chị em cải lương thì xin các cô thử cả gan mà cũng bắt chước chị em về phương diện tự do hôn hít, các cô sẽ được có tên trong tiểu đội tiền phong cải lương hát bội, và tự do hôn hít. Danh giá chưa!”.

Và có nhiều lời lẽ tệ hơn thế nữa.

Dẫn chứng trên cho chúng ta thấy cuộc xung đột Mới – Cũ là một sự kiện xã hội quan trọng.

Sự ra đời của cải lương như người ta vẫn giải thích là do yêu cầu của xã hội, phục vụ lớp khán giả mới là những người thuộc các tầng lớp tư sản, tiểu tư sản thành thị. Ý kiến chung vẫn nhận định cải lương là con đẻ của xã hội tư sản.

Như vậy, trong cuộc xung đột Mới – Cũ, lẽ ra sân khấu cải lương phải nghiêng về phía MỚI mới phải, thế mà trong thực tế, tình hình lại ngược lại.

Đêm 31 tháng 3 và đêm 1 tháng 4, nhóm sinh viên trường luật trình bày trên sân khấu ở trụ sở Nhạc hội Bờ hồ vở Tối độc phụ nhâm tâm 8 màn của soạn giả Phạm Công Bình, giáo sư trường Chasseloup Laubat Sài Gòn (sau này in thành sách, đổi tên là Bội phu quả báo).

Nội dung vở diễn như sau: Phan Thái Hoà là người học trò nghèo, nhờ bố mẹ vợ cấp cho ít tiền ăn học với hy vọng thi đỗ, làm quan. Chẳng may cha chết, nhà túng thiếu, nợ nần quá nhiều. Thái Hoà không an tâm học tập được nên thi hỏng. Gia đình vợ thấy nhà Thái Hoà sa sút lại hỏng thi nên đối xử rất lạnh nhạt. Vợ là Lý Ngọc Thơ mắng nhiếc chồng đủ điều và buộc phải ký giấy để cô ta lấy chồng khác. Người chồng mới là một tay chơi bời cờ bạc đàng điếm.

Thua bạc, y đoạt hết đồ nữ trang của Lý Ngọc Thơ đi cầm bán, và đuổi Lý Ngọc Thơ đi, Lý Ngọc Thơ chẳng dám về với cha mẹ, đành liều xuống kinh thành tìm chồng cũ. Thái Hoà được banh tốt giúp đỡ học và thi đỗ cao. Trên đường về quê vinh quy bái tổ, Thái Hoà gặp Lý Ngọc Thơ. Tình cảm Lý Ngọc Thơ khiến Thái Hoà động lòng thương, nhưng “nước đỗ rồi khó hốt lại“ được.

Chàng chỉ có thể giúp cho Lý Ngọc Thơ tiền lộ phí để trở về với cha mẹ. Nhưng Lý Ngọc Thơ xấu hổ không dám về nên tự tử. Người vợ bội bạc chồng đã bị trừng phạt.

Năm 1925, ở Hà Nội lại trình diễn vở Châu trần tiết nghĩa của soạn giả Nguyễn Văn Tệ, sinh viên Trường Cao đẳng. Nhà Châu Minh Nghĩa bị vận rủi. Cha chết, mẹ loà. Minh Nghĩa phải dắt mẹ tìm đến nhà người bạn cũ của cha và cũng là người đã hứa gả con gái cho chàng để nhờ giúp đỡ. Giữa đường mẹ chết, Minh Nghĩa phải đi xin ăn, may gặp người tốt là Võ Thị Ân cứu giúp và hai người kết bạn.

Đến nhà nhạc gia, Minh Nghĩa bị người cha ra cho điều kiện trong ba ngày phải có đủ ba trăm lạng bạc và lễ vật, nếu không thì phải tự ý xin huỷ hôn ước. Sở dĩ có sự đổi ý như vậy vì đã có một người khác, con quan lắm tiền đến xin làm rể.

Nhưng Trần Hương Tiết, người vợ đính ước của Minh Nghĩa, là người tốt, không tán thành cha tham giàu phụ nghĩa nên bỏ đi. Đến rừng Tiết Lâm, đau khổ quá, nàng toan tự tử thì may gặp lão tiều phu khuyên giải rồi nhận làm con nuôi.

Không lấy được Hương Tiết, tên công tử kia tức giận, tìm kế hãm hại Minh Nghĩa, lễ tiền để quan sở tại bắt tù Minh Nghĩa rồi lại đút tiền cho lính gác đầu độc Minh Nghĩa. Nhưng Võ Thị Ân phát giác ra mưu mô thâm hiểm ấy, đã cứu thoát Minh Nghĩa và làm đơn lên tận kinh để minh oan cho bạn. Minh Nghĩa được khỏi tội, thi đỗ làm quan.

Ngỡ là Hương Tiết đã chết, Minh Nghĩa đến rừng Tiết Lâm làm lễ tế nàng thì gặp ông lão tiều phu. Vợ chồng lại sum họp. Trong khi ấy, cha tên công tử kia bị cách chức và tên nọ bị tầm nã. Y trốn vào rừng Tiết Lâm, bị quân của Minh Nghĩa bắt được. Y hộc máu chết.

Đến năm 1926, khán giả Hà Nội lại được xem vở Trang Tử cổ bồn của soạn giả Nguyễn Đăng Phong. Năm sau, nhóm phụ nữ tổ chức trình diễn lại vở  này và bị phái bảo thủ đả kích kịch liệt như đã nói ở trên.

Trong lời nói đầu của vở hát, soạn giả viết: “Trước ngọn đèn khuya, giở pho sách cũ, càng tiêm nhiễm được tinh hoa cực học, lại càng tiếc thương thay cho công nghiệp của thánh hiền. Rực rỡ thay bốn chữ luân lý cương thường…

Ngày xưa sáng suốt như mảnh gương báu để minh tâm mà nay đã tỏ mờ nào khác ngọn đèn lờ soi đêm tối. Tiếc thương thay và lo sợ thay. Ngọn sóng đồi phong bỗng một phút dồi dào mà nền phong hoá bị trận thuỷ trào gần trôi mất”.

Vở Trang Tử cổ bồn khai thác chuyện người vợ Trang Tử là Điều Thị, chồng mới chết chưa được bảy ngày, đã mê say Sở Vương Tôn là học trò của Trang Tử. Vương Tôn lên cơn đau bụng cần có óc người uống thì mới khỏi. Điền Thị không ngần ngừ dùng búa đạp vở quan tài của chồng, định lấy óc cho Vương Tôn chữa bịnh.

Những vở trên đều là những vở mới sáng tác và hình thức công diễn là những buổi diễn tài tử phục vụ cho công chúng đông đảo chứ không dành riêng cho số khán giả quen thuộc của cải lương, vì thế ý nghĩa của nó rất đáng kể. Rõ ràng là khuynh hướng tư tưởng của sân khấu cải lương không ủng hộ chủ trương bỏ CŨ theo MỚI.

Ở các soạn giả viết truyện có tên tuổi, ta cũng thấy có khuynh hướng này khá đậm.

Trong vở Giấc mộng cô đào, soạn giả Nguyễn Thành Châu trình bày một “chuyện tình tay ba”. Hai thanh niên theo quan niệm tự do yêu đương cũng có tình với một cô đào hát. Kết thúc cả ba cùng đau khổ. Lời giới thiệu vở kịch có đoạn viết: “Soạn giả tả một đoạn tâm lý của bọn thanh niên xơ xác vì tình, trong buổi cương thường đảo ngược, luân lý suy đồi này…

Biết bao sự nghiệp điêu tàn vì tấm tình si của của trai thanh niên. Biết bao gia đình rời rã vì phụ nữ khuynh hướng về đường vật chất quá lẽ. Ai đi xem lấy làm gương, giữ mình kẻo để ăn năn suốt đời”. Soạn giả cũng để cho nhân vật chính nêu lên một lời phê phán nghiêm khắc: “Than ôi! Thanh niên là hy vọng vô cùng chớ có đâu lại chìm đắm ở chốn tình dục mung lung mà quên hẳn cái nhiệm vụ trong xã hội”.

Và một nhân vật khác tự lên án mình: “Khoan đã! Ngài vội đi đâu làm chi! Tôi lại còn muốn nghe ngài nói nữa. Bao nhiêu lời nói đó chưa đủ cho tôi cãi hối đâu, tôi bị đoạ lạc đã sâu rồi. Tôi còn làm nên những tội tầy trời rồi thì không còn tư cách của con người nữa. Ngài phải nguyền rủa tôi, phải mắng nhiếc tôi một cách thậm tệ, hoặc giả có giết tôi đi cũng nên”.

Trong vở Lỡ tay trót đã nhúng chàm, soạn giả Huỳnh Thủ Trung (Tư Chơi) diễn tả một thanh niên vì say mê một cô gái làm tiền mà ruồng rẫy vợ con. Rút cuột chàng chán đời, mất trí, thành kẻ điên rồ. Những lời nói mà soạn giả đặt vào miệng người cha là những lời răn dạy chung cho bọn thanh niên trác táng: “Giận có mặt chẳng đạt nhân, giận lòng không trí thức, cũng ngang ngang bảy thước, cũng nhứt phần tử trong nhân quần, cũng có chân biết đi, miệng biết nói, tai biết nghe, lòng biết độ, mà để cho khối tình si nhu lãng cả linh hồn, ác cảm khát khao và não hải, chi đến đời lầm ngay một con thanh lâu kỹ nữ là một con cực kỳ đê tiện trong đời rồi lại còn trách ai?”.

Cũng qua lời người cha, soạn giả nêu gương hiền thục của người vợ theo quan niệm cũ: “Cha thiết tưởng người đàn bà mà biết tôn kính cha mẹ chồng, yêu quý chồng, lòn lỏi từ tiếng nói của chồng, lo từ miếng ăn, giấc ngủ, tấm áo, manh quần cho chồng như vợ trước của con đó, tưởng khi con chết đi sống lại mấy lần cũng khó mà tìm lại được!…”.

Những vở nói trên là những vở nổi tiếng trên sân khấu cải lương, được nhiều thế hệ khán giả hâm mộ. Qua sự phân tích của các vở ấy, ta thường thấy các soạn giả khai thác xung đột, tính kịch ở sự đối kháng giữa tình yêu tự do và luân lý đạo đức, giữa cá nhân và gia đình.

Qua diễn biến của kịch, ta thấy tình yêu tự do thường là nguyên nhân gây ra mọi sự đau khổ, đổ vỡ, ngay cả cho chính bản thân những người lựa chọn tình yêu tự do. Cuối cùng những người này hoặc là chết, hoặc là hối cãi quay lại với gia đình, với cái luân lý đạo đức mà trước đó họ đã phá.

Sự xung đột Mới – Cũ là một chủ đề mà soạn giả Trần Hữu Trang đề cập trong nhiều vở nổi tiếng của ông như Tô Ánh Nguyệt, Mộng Hoa vương, Chị chồng tôi.

Vở Tô Ánh Nguyệt mang tên nhân vật chính Tô Ánh Nguyệt. Nguyệt có người yêu là Minh. Nhưng gia đình Nguyệt thì lại không bằng lòng cho hai người xây dựng gia đình với nhau vì đã chọn cho Nguyệt một người chồng là Bích có địa vị xã hội hơn Minh. Bị áp gả, Nguyệt bỏ nhà trốn đi để giữ trọn mối tình với Minh, vì lúc đó, Nguyệt đã mang thai với Minh rồi.

Nguyệt cam sống trong cảnh thiếu thốn, bị gia đình ghét bỏ, xã hội chê bai. Khi sinh đứa con đầu, Nguyệt nghĩ mình khó bảo đảm cho đứa trẻ, nên đành xa con, đem con đến trao cho Minh nuôi dạy. Minh cũng đã cưới vợ vì áp lực của gia đình.

Không muốn để Thu Dung (vợ Minh) biết câu chuyện trước, nên khi gặp Thu Dung, Nguyệt nói dối là vì nghèo không thể nuôi được con nên đem con đến nhờ vợ chồng Minh làm phúc nhận làm con nuôi. Mười tám năm trôi qua, Tâm – tên đứa con – đã trưởng thành và lấy vợ.

Vẫn không dám nhận con sợ ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình của chồng con, Nguyệt thêu một đôi mặt gối gửi mừng con mà không bảo là của ai cả. Trong khi ấy thì Tâm thấy cha thường lui tới nhà Nguyệt là một người đàn bà bị dư luận chê bai, liền tìm đến yêu cầu Nguyệt không được quyến rũ cha mình, phá hoại sự yên ấm gia đình mình. Tâm không nén được, đã dùng nhiều lời nặng nề với chính mẹ mình.

Nguyệt cắn răng chịu dựng tất cả. Minh biết chuyện, thương Nguyệt và giận mình nhu nhược để riêng mình Nguyệt phải hy sinh, ngày đêm tâm trí bị giày vò, cuối cùng mang bệnh nặng. Trước lúc chết, Minh nói hết mọi chuyện và đến lúc ấy mọi người mới hiểu rõ sự hy sinh cao thượng của Nguyệt.

Trong vở Tô Ánh Nguyệt, Trần Hữu Trang lên án hàng loạt tập tục bất công, vô lý, bất nhân của chế độ gia đình phong kiến.

Soạn giả để Nguyệt nói với Bích: “A, có lẽ theo ý thầy nghĩ, trong cuộc hôn nhân thì đôi bên, cửa nhà cho xứng, tiền bạc ngang nhau, hay ít ra cậu trai cũng được đôi ba cái cấp bằng, chừng ấy thì tha hồ mà loè đời, tha hồ mà mua dâu bán rể, mà chiếm lòng yêu của một cô gái còn thơ, có phải chăng thưa thầy?”.

Đó là một câu nói vạch trần những tính toán xấu xa núp sau cái bình phong môn đăng hộ đối. Hôn nhân chỉ là một chuyện mua bán đổi chác, một là ngang giá, hai là bên nào cao giá hơn thì có quyền áp đặt điều kiện cho bên kia.

Một khi đã tính toán có lợi, cha mẹ dùng quyền lực bắt buộc con cái phải vâng theo, không được xin một điều kiện nào hết, không được nêu một lý do nào hết để khước từ. Mệnh lệnh của gia đình là tuyệt đối. Ông Cả (cha của Nguyệt) tuyên bố (ca Mẫu tầm tử):

Chớ toan lắm lời

Du chẳng ưng, tao cũng lo xong

Chỗ môn đương hộ đối mà mày chê

Tao lẽ đâu thất hứa với người

Mầy không đành ưng cũng trối thây.

Soạn giả phê phán chế độ đa thê, vốn là một sự bất công trắng trợn đối với người vợ. Sau đây là một đoạn đối thoại giữa Minh và Thu Dung (người vợ mà gia đình cưới cho Minh).

Dung: Tại tập quán của phong tục, tại sự bất công của xã hội. Đối với phái nữ lưu thì hết sức nghiêm khắc, mà đối với bọn đàn ông thì lại được dung túng tự do, có nhiều chỗ em thấy một chồng tới đôi bà vợ.

Minh: Mà em có ưng như thế không?

Dung: Em thì hết sức phản đối việc ấy, em chỉ thích một vợ một chồng thôi.

Minh: Vậy thì em tham lắm.

Dung: Vâng, ai cười em tham thì em chịu, ái tình không thể san sẻ cho ai được cả. Chỉ có một vợ một chồng là hoạ may mới giữ được sự đầm ấm trong gia đình.

Minh: Ngộ như vợ chồng ở với nhau lâu mà không có con, em cũng không bằng lòng cưới vợ lẽ cho chồng nữa sao?

Dung: Điều ấy là một trường hợp bất thường, chứ không phải trong cảnh thường. Song, nếu có cũng là một sự bắt buộc theo chủ nghĩa gia đình, chớ thật ra em cũng không ưng chút nào cả.

Lý luận của chủ nghĩa gia đình là vậy. Đàn ông năm thê bảy thiếp, là thường, đàn bà giữ riêng chồng cho mình là tham lam ích kỷ. Người vợ chỉ có chức năng đẻ con nối dỗi dòng họ, nếu không làm được việc đó thì người chồng lấy vợ khác. Vô lý và tàn nhẫn biết bao nhiêu!

Soạn giả cho ta thấy tính chất bất nhân của tập tục nuôi con nuôi trong xã hội cũ. Đây không phải là một hành vi nhân đạo nhằm mục đích giúp đỡ người mẹ và bảo trợ đứa trẻ. Đây là sự chiếm đoạt. Người mẹ không có điều kiện nuôi con phải đem con cho hoặc bán cho người khác thì coi như mất con hoàn toàn, không được giữ một quan hệ nào, kể cả quan hệ tình cảm. Thu Dung đã đặt điều kiện với Nguyệt:

“Khi nó lớn lên cô cũng không được nhìn nhận nó mà chuộc nó về, vì tôi nuôi nó, tôi thương tôi mến nó, thì cô phải để nó ở luôn với tôi mới được”.

Đặc biệt đối với vấn đề tự do luyến ái thì thái độ của các người bề trên trong gia đình cũ không bao giờ chấp nhận. Đối với những người này, tự do luyến ái đồng nghĩa với yêu thương bất chính. Nguyệt nói rõ quan niệm ấy: “Vì theo lời thư trước anh gửi về nhà tỏ thật là anh phải lòng em, nhưng em dám chắc đối với thành kiến các cụ thì bao giờ ở nhà cũng nghĩ rằng anh mê một ả nào, nên mới gởi thơ như thế. Hôm nay, giục anh về là có ý muốn đoạn tuyệt mối tình giữa chúng ta, mà hơn nữa là cưới vợ cho anh, để anh quên người yêu của anh, vì cái người anh yêu ấy, các cụ bao giờ cũng nghĩ cho là người không xứng đáng”.

Và người cha của Nguyệt mắng con: “Nguyệt! Tại sao con lớn gan làm vậy? Tao nghĩ, tao với mẹ mầy cho mầy đi học uổng lắm. Học nhiều chừng nào hư chừng ấy, chớ không ích gì. Tại sao chỗ cha mẹ định con không ưng, rồi con lại tự ý đi làm chuyện xấu hổ này. Đó, con làm vậy khổ cho cha mẹ đã già, con trả ơn cha mẹ bằng cách đó phải không?”.

Đối với ông bố bảo thủ ấy, trai gái nói chuyện với nhau là hư hỏng, con gái chưa có mai mối mà gặp người con trai là lang tâm trắc nết, người con trai được nhận tấm lòng yêu là dụ dỗ, quyến rũ gái tơ…

Trong vở Tô Ánh Nguyệt, Trần Hữu Trang đứng trên lập trường phê phán những tập tục cũ.

Trong vở Chị chồng tôi, Trần Hữu Trang trình bày một tình trạng mà tục ngữ cũ đã từng nói: giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng.

Phú và Quý là hai chị em. Quý đi học ở Hà Nội gặp Oanh, một người bạn học. Oanh quê ở Nam Bộ theo cha mẹ ra Hà Nội lập nghiệp làm ăn. Không may cha mẹ Oanh lần lượt qua đời. Thấy tình cảnh Oanh rất khó khăn, Quý hết lòng giúp đỡ. Hai người yêu nhau. Sau khi tốt nghiệp, Quý về quê và đưa Oanh về giới thiệu với gia đình.

Nhưng gia đình Quý không chấp nhận Oanh vì đã dự định cưới cho Quý một người vợ là con nhà giàu có. Trong việc này, Phú là người chủ mưu. Vì Phú tính toán nếu Quý lấy vợ giàu thì tất cả gia tài sẽ về tay vợ chồng chị ta hết. Phú ra sức xúi giục mẹ và hành hạ Oanh. Rút cục Quý và Oanh phải đem nhau đi.

Quý và Oanh xin được việc làm ở một hãng buôn. Nhưng lão chủ manh tâm quyến rũ Oanh. Không đạt được mục đích, nó đuổi Quý không cho làm, đồng thời lại vu cáo cho Thanh, một người bạn tốt của Quý, là có tình ý với Oanh.

Quý vừa buồn vừa lo, sinh bệnh. Oanh thương chồng, nuốt nhục về nhà xin mẹ Quý giúp cho ít tiền để chữa bệnh cho chồng. Nhưng Oanh chỉ gặp Phú, bị Phú sỉ nhục đuổi đi.

Quý bệnh ngày một nặng, Oanh lại sinh con. May nhờ Thanh hết lòng giúp đỡ.

Gia đình Quý hỏi dò tìm được đến nhà Quý, mới hay Phú đã nhẫn tâm đối xử không chút nhân đạo với chính em trai mình. Nhưng bệnh quá nặng, Quý không sống được. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Quý trối trăng lại nhờ Thanh nuôi dạy đứa nhỏ. Oanh chỉ kịp trao đứa con cho Thanh rồi gục xuống bên mình chồng.

Trong vở Chị chồng tôi, Trần Hữu Trang đứng về phía tình yêu tự do và lên án những tập tục gia đình khắt khe, bảo thủ cũng như trong vở Tô Ánh Nguyệt. Cái chết của Minh (Tô Ánh Nguyệt) và Quý (Chị chồng tôi) là những lời tố cáo quyết liệt. Mức độ tố cáo trong Chị chồng tôi cao hơn trong Tô Ánh Nguyệt.

Hình ảnh Oanh gặp cảnh gia đình tai biến, xa quê hương, may gặp được Quý và được trở về quê hương, tưởng là có tình yêu, có gia đình và có cả quê hương, nào ngờ gia đình Quý không nhận. Theo chồng đi thì bị tên chủ hãng khốn nạn quyến rũ rồi vu cho điều bất chính khiến chồng nghi ngờ. Trở về nhà mày dày mặt dạn để xin tiền chữa bệnh cho chồng thì bị sỉ nhục.

Và cuối cùng là hai cái chết. Đứa nhỏ vừa ra đời bảy ngày đã bị mồ côi cả cha lẫn mẹ. Tất cả những cảnh ngộ bi đát ấy là do tập tục gia đình cũ gây nên. Trên sân khấu, gia đình cũ đã được hiện thân trong bà Hai, ông Cả và nhất là Phú – hình tượng Phú đanh ác, điêu ngoa, tàn nhẫn, xảo quyệt làm cho người xem vô cùng căm giận. Càng căm giận bao nhiêu, người ta càng thương xót Oanh bấy nhiêu.

Trong Chị chồng tôi, soạn giả đã thấy được mối quan hệ giữa tập quán xã hội với cơ sở kinh tế. Phú quyết tâm phá hoại hạnh phúc của Quý và Oanh, cũng do lòng tham lam muốn giành cho mình tất cả gia tài. Soạn giả đã để cho Quý nói rõ điều này: “Phải chăng chị muốn cho tôi đi đào mỏ, đặng ngồi trên đóng vàng mà hưởng của bên vợ ban cho. Tôi có vợ giàu thì cái gia tài này mới còn nguyên vẹn, chớ còn chị nhìn Oanh là em dâu, đứa con gái nhà nghèo không của hồi môn, thì ở đây khỏi chi không bám vào nhà chồng thì cái sự nghiệp này phải hao mòn đi.

Nhưng không sao đâu chị, tôi đã liệu sẵn sàng rồi, tôi ra đi, cái gia sản này giao hết cho vợ chồng chị, ngày nào chị nghe tin tôi không trở về thì chị trọn quyền thừa hưởng”. Trong cuộc xung đột Mới – Cũ, Trần Hữu Trang đã phát hiện được đằng sau những lập luận đạo đức, là những lý do kinh tế, là đầu óc tham lam vị kỷ. Đây là một sự kiện quan trọng mà các soạn giả sân khấu khác chưa đề cập đến.

Chống lại những hủ tục, Trần Hữu Trang kiên quyết đấu tranh cho hôn nhân tự do. Điều kiện cần thiết trong việc xây dựng gia đình là tình yêu. Tất cả những điều khác như môn đăng hộ đối, giàu sang, địa vị, bằng cấp, tiền bạc… đều không cần thiết. Cuộc hôn nhân chỉ tốt đẹp khi là kết quả của tình yêu, chỉ có tình yêu mới bảo đảm được hạnh phúc gia đình.

Vở Mộng Hoa vương là một vở được khán giả cải lương nhiệt liệt hâm mộ. Trong vở này, Trần Hữu Trang trình bày một quan niệm về tình yêu hết sức phóng khoáng.

Được gợi ý bởi một truyện phim, soạn giả hư cấu truyện một bà vua trẻ, đẹp chưa chồng là Mộng Hoa vương nước Tần muốn cầu thân, sai sứ thần là Ngô Trung Cảnh sang xin cưới Mộng Hoa cho thế tử. Qua cuộc tiếp xúc, Mộng Hoa thấy Ngô Trung Cảnh là một người tài hoa, lịch thiệp, rất hợp với ý nguyện của mình và Ngô Trung Cảnh cũng đánh giá Mộng Hoa là một bậc nữ lưu mà tư tưởng, tính tình rất đáng mến…

Hai người hiểu nhau, yêu nhau trong một mối tình thanh cao đằm thắm. Một đêm trăng trong vườn ngự uyển (đó cũng là một nhan đề khác của vở Mộng Hoa vương) hai người đã trao đổi tâm tình để trái tim nói lên tiếng nói thành thực, tự do.

Nhưng các vị quan to trong triều đình bị gò bó trong những quan niệm lễ giáo, đồng thời cũng có những tính toán riêng tư, tìm cách ngăn cản mối tình đó. Riêng nguyên nhung Triệu Tuấn vẫn hy vọng sẽ chiếm được trái tim của Mộng Hoa thì tức giận vô cùng. Y đã ám sát Ngô Trung Cảnh. Cõi lòng tan nát, Mộng Hoa bỏ ngai vàng, giàu sang, uy quyền, xuống thuyền theo thi hài của Ngô Trung Cảnh cho trọn niềm chung thuỷ.

Trong vở, soạn giả để Mộng Hoa tuyên bố những ý kiến về tình yêu theo quan niệm tự do luyến ái:

“Các khanh khử nghĩ coi, nếu mọi người trẫm chưa hề biết mặt, chưa hiểu rõ tánh tình thì dầu người đó là một ông hoàng hay người đó tài ba xuất chúng thế nào, trẫm không bao giờ nhận lời mà tứ hôn cho được… Trẫm sẽ kết duyên với một người mà theo ý trẫm muốn”.

“Triệu nguyên nhung, khanh lầm! Trẫm trọng khanh vì tài mà không cảm khanh về tình, khanh là một tướng hữu tài chớ không phải là một khách hữu tình. Đây này, khanh bước lại gần đây, khanh có nghe không? Một trái tim rung động thế này làm sao hoà chung được một nhịp với trái tim khanh là một trái tim không cùng chung một nhịp điệu…

Cái kết thúc của vở kịch đưa Mộng Hoa thành thần tượng của tình yêu tuyệt đối. Mộng Hoa nói với bá quan văn võ kéo nhau đến biên cương, yêu cầu nàng trở về triều đường:

“Trẫm đa tạ ơn các khanh, quan Phụ chính, quan Thái sư, quan Ngự sử, quan Đô đốc, quan Nguyên soái, các khanh có vì cơ nghiệp mấy ngàn năm của Tiên vương để lại, thì hãy chọn người đủ đức tài thay thế cho trẫm. Giang san là của chung thiên hạ, nào của riêng một mình trẫm có độc quyền. Tại sao các khanh cứ đem cái vật thiêng liêng quý báu nhất đời trẫm, các khanh lại cướp mất đi và chuyên chế trẫm đến ngần này! Đây! Các khanh hãy nhìn cho kỹ. Kìa! Các khanh có thấy không? Một bên thì kiệu vàng chực sẵn, nếu trẫm bước lên kiệu trở về cung, còn một bên thì xác chết chưa chôn, nếu trẫm, bước chân xuống thuyền thì đời trẫm có khác chi tử thi đã gói kín trong bức khăn liệm trắng, nhưng Ngô quân đã vì yêu ta cam thiệt mạng thì ta đây:

(Ca chuồn chuồn)

Cùng nguyện với đất trời

Cho trọn với người ta thương…

Mộng Hoa vương là vở kịch trong đó soạn giả Trần Hữu Trang phát biểu nhiều ý kiến đặc sắc, táo bạo. Nhân vật Mộng Hoa là một sự thách thức ngang nhiên đối với gia đình phong kiến, hơn nữa đối với chế độ phong kiến. Ngai vàng phong kiến, Mộng Hoa xem nhẹ hơn hạnh phúc con người. Mộng Hoa vượt qua những kỷ cương của trật tự phong kiến làm những việc theo ý riêng. Thực ra, quan niệm về tự do của Trần Hữu Trang cũng mới chỉ là quan niệm tự do tư sản thôi. Nhưng nó đã mang ít nhiều màu sắc Nhân dân.

Thí dụ như việc Mộng Hoa tin dùng Bạch Cúc và Hồng Liên là hai cô gái miền núi hồn nhiên thực thà. Hai cô đã từng làm giặc và đã định bắt cóc Mộng Hoa, sau trở nên người thân tín, gần như bạn tâm tình của Mộng Hoa. Nhất là lớp kịch Mộng Hoa trưng cầu ý kiến của quần chúng về tình yêu thì thật độc đáo. Do sự bố trí của các quan, dân chúng kéo đến triều đình yêu cầu Mộng Hoa đuổi Ngô Trung Cảnh về nước. Mộng Hoa cho một số đại biểu vào gặp. Với một ông già làm nghề chài lưới đã trên 72 tuổi có vợ và hơn 10 người con, Mộng Hoa ra lệnh phải bỏ vợ con. Với một cô gái quê lấy chồng nghèo, Mộng Hoa bắt phải ly dị chồng.

Điều kiện đặt cho hai người là: Nếu theo lệnh vua thì được quan tước vàng bạc; nếu không theo thì bị tội chết. Kết quả cả hai đều xin đành chịu chết, chứ không phụ nghĩa vợ chồng. Khi hỏi tất cả quần chúng thì mọi người cũng đều trả lời như hai người trên. Mộng Hoa bảo các quan: “Các khanh thấy chưa? Rất đỗi một ông lão thuyền chài đầu râu tóc bạc, cho đến một chị đàn bà dốt nát nghèo nàn mà không thể quên tình yêu của mình để đi tham bạc vàng quyền tước. Bao nhiêu người đều ở dưới quyền trẫm, sanh sát trẫm nắm trong tay, mà trẫm không thể yêu cầu được, hay xâm phạm được tình yêu của chúng dân. Nhưng tại sao tình yêu của trẫm, tất cả chúng dân từ sang tới hèn lại có quyền can dự vào, buộc trẫm phải theo ý muốn của mọi người là nghĩa lý gì?”.

Tuy nhiên, Mộng Hoa vương vẫn chỉ là một vở kịch lãng mạn và cái tư tường quán xuyến “đi theo tiếng gọi của trái tim”, nếu không được hiểu một cách đúng đắn, thì sẽ có những hậu quả tai hại. Trong xã hội cũ trước Cách mạng Tháng Tám, không ít nam nữ thanh niên “đi theo tiếng gọi của trái tim”, rút cục đi vào con đường sa đoạ, tội lỗi, tan nát cả cuộc đời. Cho nên, chế độ hôn nhân cưỡng ép kiểu phong kiến là bất nhân, nhưng tình yêu tự do kiểu tư sản cũng dễ đưa đến vực thẳm truỵ lạc, bất hạnh. Mộng Hoa vương có thể là một khoảnh khắc bồng bột “nghệ sĩ” của Trần Hữu Trang. Trong các vở khác, soạn giả giải quyết vấn đề một cách bình tĩnh, hợp tình hợp lý hơn và đúng với phong cách Trần Hữu Trang.

Trong Tô Ánh Nguyệt cũng như trong Chị chồng tôi, soạn giả chủ trương tình yêu tự do, nhưng đây là tình yêu chân chính trong phạm vi đạo lý và không thoát ly thực tế xã hội. Soạn giả phân biệt rạch ròi những gì là hủ tục cần loại bỏ và những gì là truyền thống tình nghĩa tốt đẹp của dân tộc phải duy trì. Trong khi nhiều tác giả bị quyến rũ bởi những màu sắc lãng mạn, thi vị hoá cái ái tình tư sản, Trần Hữu Trang vẫn giữ vững cốt cách dân tộc. Tô Ánh Nguyệt cũng như Oanh đều là những phụ nữ có học thức, nhưng vẫn giữ đạo làm con, làm dâu, làm vợ, làm mẹ, vẫn một niềm hiếu thảo, nết na, hiền dịu, chịu thương chịu khó. Tình yêu tư sản đòi hỏi tất cả cho cá nhân, nó rất dễ trở nên ích kỷ. Tình yêu mà Trần Hữu Trang thể hiện qua các nhân vật của ông là tình yêu vị tha. Họ sẵn sàng hy sinh vì người yêu. Họ đề cao giá trị tình cảm, nhưng họ không để tình cảm che lấp lý trí. Họ bảo vệ quyền sống riêng của mình nhưng không vì thế mà coi thường nền nếp chung, không đếm xỉa gì đến những yêu cầu chính đáng của người khác, của gia đình, của xã hội.

Trong vở Tấm lòng trinh, tình yêu lứa đôi Hoàng và Khanh rất đẹp. Dù Khanh do sự hãm hại của kẻ xấu, bị mang tiếng là thất trinh, dư luận mỉa mai khinh rẻ, Hoàng vẫn yêu nàng tha thiết. Khi ông bố Hoàng yêu cầu Khanh đoạn tình với Hoàng, cho Hoàng bằng lòng cưới vợ để bà mẹ hết lo buồn mà lành bệnh, Khanh khẳng khái giúp đỡ. Nàng nói gạt Hoàng là chính nàng không giữ trọn trong trắng với Hoàng và không xứng đáng làm vợ Hoàng (nhưng đó chỉ là một mưu kế của ông bố Hoàng bày ra để thử xem Khanh yêu Hoàng đến mức nào. Khi thấy rõ hành vi cao thượng của nàng, ông cảm động, nói rõ dụng ý của ông và xin cưới Khanh cho Hoàng).

Trong cuộc tranh chấp giữa hai phái Mới và Cũ, phái này, chạy theo cái gọi là văn minh Âu Mỹ một cách mù quáng, trở thành vong bản, sùng ngoại, những “ông Tây An – Nam” ruồng bỏ quê hương Tổ quốc, quên hết giống nòi, cha mẹ; phái kia thì khư khư bảo thủ những món đồ cổ mốc meo, giật lùi trước sự tiến hoá, bưng tai bịt mắt không chịu nghe, trong thực tế trở thành những vật chướng ngại ngăn cản sự phát triển của xã hội; một phái hô hào giải phóng con người kỳ thực chỉ là tuyên truyền chủ nghĩa cá nhân vị kỷ; phái kia nhân danh chống sự xâm lăng của văn hoá ngoại bang, chống sự lai căng, kỳ thực vẫn là duy trì những tàn dư của chế độ phong kiến.

Cả hai phái đều mang những động cơ không trong sáng, không đưa ra những giải pháp đúng đắn. Những bài viết, cuốn sách của phái cũ thì chỉ lặp lại những câu sách thánh hiền, những bài gia huấn ca rồi để thở ra những luận điệu yếm thế: phong hoá suy đồi, luân thường đảo ngược… Văn chương sáng tác của phái Mới thì chuyên chở nhiều yếu tố độc hại đến với những đầu óc non nớt, những tâm hồn bạc nhược. Trần Hữu Trang tỏ ra là một người có lòng với thời cuộc, có trách nhiệm với phong trào, có lương tâm của người cầm bút. Có thể là các vở kịch của ông có vở còn mang khuynh hướng lãng mạn, nhiều vở mới dừng lại ở chủ nghĩa hiện thực phê phán, và nói chung đi đến kết thúc bi thảm, nhưng trên lĩnh vực sân khấu cải lương và phong trào văn nghệ nói chung, Trần Hữu Trang là một trong số ít các nhà văn đứng đắn, tiến bộ.

Đời cô Lựu

Đời cô Lựu là vở cải lương nổi tiếng nhất của Trần Hữu Trang và cũng là một trong những vở hay nhất của sân khấu cải lương trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Cô Lựu là vợ anh Hai Thành, tá điền của Hội đồng Thăng. Thấy Lựu có nhan sắc, Hội đồng muốn đoạt cô làm vợ. Y lập mưu bỏ súng lục vào nhà Hai Thành rồi báo cảnh sát đến bắt. Sau khi Hai Thành bị bắt, y giả bộ nhân nghĩa dắt Lựu đi nơi này nơi nọ chạy trạng sư để minh oan cho chồng. Kết cục Hai Thành bị lên án tù hai mươi năm, đày đi Côn Đảo, nhà cửa tài sản bị tịch thu và Lựu trở thành vợ Hội đồng Thăng.

Lúc này Lựu đã có mang thai với Hai Thành. Khi cô sinh, Hội đồng Thăng giấu đứa nhỏ, nói dối là bị kinh phong chết, thực ra y đem cho cô nhi viện.

Lựu ăn ở với Hội đồng Thăng, sinh được một người con gái là Kim Anh.

Các bà con tá điền rất thương Hai Thành. Trong số đó có vợ chồng ông Hương. Ông Hương biết Hội đồng Thăng chính là tên chủ mưu trong vụ án hại Hai Thành. Đứa con trai của Hai Thành mà Hội đồng Thăng đem bỏ vào cô nhi viện, ông bà Hương bí mật xin về làm con nuôi đặt tên là Minh Luân.

Sau 19 năm ở Côn Đảo, Hai Thành vượt ngục về tìm vợ con. Gặp ông bà Hương, anh biết rõ mọi chuyện. Căm giận con người phụ bạc, anh viết cho Lựu một bức thư buộc Lựu phải lo anh 10 ngàn đồng để anh thu xếp việc học hành, sanh cơ lập nghiệp cho Minh Luân, còn anh sẽ trốn đi biệt tích. Số tiền ấy trong ba ngày phải đến tay anh, bằng không anh sẽ có cách báo thù.

Bức thư này, Hai Thành trao cho Minh Luân đưa tới cô Lựu.

Nhận được thư, cô Lựu vừa mừng, vừa lo, vừa xót xa cho chồng và nhất là con bấy lâu khổ sở mà Lựu không hay, không giúp gì được. Lựu thấy rất khó xử vì làm sao có được món tiền 10 ngàn trong ba hôm, mặc dù là vợ Hội đồng Thăng, cô có quyền hành gì đâu.

May sao, Kim Anh là người con gái biết thương mẹ, nghĩ ra cách đem đồ tư trang đi cầm để có được số tiền trên đưa cho mẹ. Để kín chuyện, Kim Anh mua đồ tư trang giả thế vào.

Tới ngày hẹn, Minh Luân đến. Sau khi được hiểu rõ tình cảnh của mẹ, của em, Minh Luân cự tuyệt, nhất định không nhận số tiền ấy. Anh không muốn vì mình mà mẹ và em phải lo nghĩ. Thấy Luân quần áo rách rưới, cô Lựu giữ Luân lại và đi mua quần áo cho Luân.

Kim Anh hết sức thuyết phục Minh Luân nhận số tiền. Chẳng dè chồng Kim Anh đã biết chuyện vợ cầm đồ tư trang nên nghi vợ ngoại tình. Nay thấy vợ nói năng thân mật với Minh Luân thì yên trí Minh Luân là tình nhân của vợ. Thấy trong túi Luân có phong thư (thư này cô Lựu gửi cho Hai Thành) y đòi xem. Luân không chịu đưa. Y rút súng bắn Minh Luân trúng vào bắp chân.

Minh Luân được đưa vào bệnh viện điều trị, cô Lựu đến thăm con, gặp Hai Thành. Sau khi nghe Lựu giãi bày nông nỗi, Hai Thành hiểu được nỗi khổ tâm của vợ. Nhưng đúng lúc ấy, Hội đồng Thăng cũng tới. Y nhận ra Hai Thành, sai tài xế đi báo cảnh sát. Ngọn lửa căm thù bốc cao, Minh Luân xông tới đâm chết Hội đồng Thăng.

Vở cải lương kết thúc bằng một lớp bi kịch, Kim Anh phát điên. Cô Lựu cho rằng mọi tội lỗi là do mình cả, nguyện cắt tóc đi tu để sám hối.

***

Vở Đời cô Lựu đã phơi bày trên sân khấu những thảm cảnh lớn của xã hội ta dưới thời Pháp thuộc.

Khi thực dân Pháp đã hoàn thành bước xâm lược bằng bạo lực quân sự và chuyển sang bình định để khai thác thuộc địa, thì chúng dựa vào cơ cấu xã hội có sẵn để củng cố, duy trì ách thống trị của chúng. Chúng tạo ra một tầng lớp địa chủ quan liêu, ban phát cho bọn này những đặc quyền đặc lợi về mặt chính trị và kinh tế, biến bọn này thành bạn đồng minh trung thành, tay sai đắc lực của chúng. Hội đồng Thăng là một trong số đó. Bọn này dựa vào thế lực kẻ cướp nước, ra sức phục vụ chúng, đàn áp nông dân, vừa để tâng công với các quan thầy, vừa để thoả mãn những quyền lợi riêng. Nông dân bị khổ sở trăm bề là do bọn này gây ra.

Mở đầu vở Đời cô Lựu, ta thấy xuất hiện ngay Hội đồng Thăng. Lúc này, Hai Thành và Lựu không ở nhà, chỉ có bọn học trò của Hai Thành (Hai Thành biết chữ Nho nên dạy thêm bọn trẻ). Y vờ hỏi việc học hành vài câu rồi sai bọn học trò đi coi xem con ngựa của y có còn buộc ở ngoài cổng không. Thừa lúc trong nhà không có ai, y đem khẩu súng giấu vào trong buồng. Lát nữa, bọn cảnh sát ập đến khám nhà, tìm thấy khẩu súng và bắt Hai Thành bị kết án tù vì tội đứng đầu một đảng chính trị chống Pháp, đêm nào cũng hội họp rất đông ở nhà Hai Thành. Sở dĩ vụ này bị phát giác là vì có thư tố cáo.

Khớp các việc đã xảy ra với nhau, ta thấy rõ đây là thủ đoạn của Hội đồng Thăng. Y viết thư tố cao, y bỏ súng vào nhà Hai Thành.

Hành vi của bọn tay sai cho đế quốc thực dân là như thế. Chúng rình mò, tố cáo những ai có tư tưởng yêu nước chống Pháp. Nếu cần, chúng vu cáo để tỏ ra là mẫn cán, đắc lực. Cứ xem cách Hội đồng Thăng bỏ súng vào nhà Hai Thành thì đủ biết nó làm việc này không phải là lần đầu, nó đã thành thạo trong nghề chó săn này.

Ta cũng nên chú ý đến nội dung bức tư tố giác: Nhà Hai Thành đêm nào cũng hội họp rất đông người, Hai thành là đầu đảng, trong nhà có tang vật. Tên Hội đồng Thăng đã đánh trúng vào tâm lý của bọn cai trị, chúng rất sợ các tổ chức của Nhân dân chống chúng. Và những lời tố cáo ấy cũng có cơ sở: Hai Thành biết chữ và có dạy học, biết bốc thuốc chữa bệnh giúp bà con, nên bà con yêu mến hay chạy lại chơi. Như vậy thư tố giác ghi là đêm nào cũng hội họp đông người là đúng.

Ra trước toà án, Hai Thành bị kết án hai mươi năm tù Côn Đảo. Tất cả những điều trên đã được thuật lại trong lời Hương lão.

(Ca Tây Thi)

Dè đâu sớm mai một ngày kia

Lính tráng tới bao vây

Hiệp với hương quản làng sở tại

Lấy cớ rằng họ rơi thơ

Nói có đây hội họp anh em

Đêm nào cũng tụ tùng rất đông

Lại nói có làm đầu mối nguy

Làng họ nghi có nó làm quốc sự

Lúc xét khắp trong ngoài

Thật là hoạ phước nan lường

Họ tóm nhằm cây súng lục

Với giấy tờ truyền đơn

Đủ cả các cớ bằng

Mãi tới sau mới rõ lại

Bởi tại họ oán thù

Nhưng đủ bằng cớ phải ở tù

Vì vậy mà sự nghiệp phải tan hoang.

Năm 1926, cuốn Đường Kách Mệnh của Nguyễn Ái Quốc được viết ra để giáo dục cán bộ và đồng bào trong nước về mục đích, ý nghĩa, phương hướng, phương pháp làm cách mạng.

Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, ngọn cờ phản đế phản phong, ngọn cờ giải phóng dân tộc đã chuyển qua tay giai cấp vô sản, quần chúng nông dân đi theo con đường của giai cấp công nhân được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin. Phong trào công nhân lớn mạnh mau chóng trong những năm 1928, 1929, 1930, đưa đến sự kiện lịch sử trọng đại: thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.

Sau phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, bọn thực dân vừa căm thù vừa hốt hoảng, chúng thi hành một chương trình khủng bố trắng. Chúng lùng bắt giam cầm, tù đày, sát hại những người yêu nước. Chúng điều lính tráng, cho máy bay ném bom, đến triệt hạ những nơi mà chúng tình nghi là có cơ sở cách mạng. “Thà giết oan một nghìn người còn hơn là để thoát một tên cộng sản”, đó là chủ trương của chúng. Chỉ cần có kẻ nào đó “rơi thơ” tố giác ai đó, nhà nào, tức là “lính tráng tới bao vây, hiệp với hương quản làng sở tại để bắt”. Vụ anh Hai Thành là một trong rất nhiều vụ đã xảy ra.

Nhằm uy bức tinh thần cô Lựu – mà đó cũng là sự thật – Hội đồng Thăng đã nói về chế độ đối với tù: “Thím phải biết rằng ai mà rủi ro lọt vào trong khám rồi thì ma cũ ăn hiếp ma mới, nếu không có tiền lo lót thì mặc sức cho họ khảo. Nhiều người bị giam trong ấy ít lâu, tới chừng toà xử, dầu có trắng án mà về nhà đi nữa rồi cũng mang bệnh, có người phải ho xuất huyết là khác nữa”.

Trong câu chuyện với Hương lão, Hai Thành nói ít nhiều về cuộc sống của những người tù Côn Đảo “dày dặn nắng sương, cháu những ngờ đâu đã đành cam vùi gởi xương ngoài Côn Lôn hải đảo… Trải bao nỗi gian lao, chịu bao nhiêu điều cực nhục, mưa gió đổi thay mấy độ… trọn mười chín năm, khi đầu ghềnh khi cuối bãi… bách chiết thiên ma, tấm thân tiều tuỵ, cái phong độ ngày xưa còn đâu nữa…”.

Trong những lời nói của Hai Thành với Lựu, chế độ tù Côn Đảo cũng được miêu tả qua một số nét. “Biển cả mò nghêu, rừng sâu đập đá… chan cơm bằng nước mắt, tắm mát bằng mồ hôi, nai lưng hứng những cái đá thoi, cắm cổ chịu đủ lằn roi vọt, gian lao, khổ sở cực nhọc trăm điều…”.

Hòng tiêu diệt tư tưởng yêu nước cách mạng trong đầu óc những người dân thuộc địa, bọn thực dân Pháp đã thi hành một chính sách cực kỳ dã man đối với những người tù chính trị. Chế độ nhà tù của chúng ta là một thủ đoạn huỷ diệt con người về cả hai mặt vật chất và tinh thần. Đó là một cách giết người dần dần, phi tang chứng cứ, để tránh sự phẫn nộ của dư luận tiến bộ.

“Để củng cố duy trì chế độ xâm lược của chúng, đế quốc Pháp phải dựa vào giai cấp đương có thế lực trong Nhân dân là giai cấp địa chủ, cho bọn này làm quan làng (hầu hết bọn quan làng trong Nam Bộ đều là địa chủ) làm hội đồng. Bọn này dựa vào thế lực của Pháp càng bóc lột nông dân thậm tệ, khai thác thêm đất đai của nông dân. Như vậy, thực dân Pháp đã biến một số địa chủ thành địa chủ quan liêu, bọn này áp bức bóc lột nông dân để tập trung thêm đất đai. Đồng thời thực dân Pháp cho những tay sai đắc lực của chúng cướp đất đai của nông dân, khai phá đất mới, trở thành những địa chỉ… Thế là đất đai tập trung bằng cách hình thành một lớp địa chủ quan liêu tay sai của Pháp.

…Ruộng đất càng tập trung thì vấn đề nhân công càng trở nên vấn đề then chốt của địa chủ.

Muốn bảo đảm vấn đề then chốt ấy, địa chủ phải biến những người nông dân phá sản thành những nhân công thường xuyên dính liền với mảnh đất của địa chủ. Người nông nô đã bị pháp luật, uy quyền buộc chặt vào đất đai của địa chủ nên địa chủ còn để nông nô. Muốn buộc họ vào đất đai của mình, địa chủ phải tìm mọi cách làm cho đời sống của họ khốn khổ thêm. Tình hình đời sống của tá điền khổ hơn nông nô. Bọn địa chủ cột chặt đời sống của tá điền vào ruộng rất không phải hằng ngày hằng tháng mà suốt đời, từ đời cha đến đời con, bằng cách chồng chất lên đầu tá điền một trăm thứ nợ.

“Đi qua vùng Hậu Giang, chúng ta thấy những toà nhà gạch to rộng mênh mông của địa chủ, xung quanh có hàng ngàn nhà tranh lá xiêu vẹo của tá điền mà người ta gọi là “nhà đá” nghĩa là đá một cái là đổ. Trong những năm thuộc Pháp, Nhật, có những người con gái của tá điền 15, 16 tuổi không có áo che thân có người phải tự tử, có gia đình vợ chồng con cái chỉ có một cái quần”.

(Lê Duẩn: Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong Cách mạng Việt Nam)

Tình hình như đã phân tích trên, ít nhiều đã được phản ánh trên sân khấu trong vở Đời cô Lựu.

Trước mặt Hội đồng Thăng, điền chủ, thì những người tá điền nghèo khổ, khúm núm sợ sệt như thể những con thỏ đứng trước con sói. Họ hết sức lấy lòng chủ điền, bằng không chủ điền lấy ruộng lại không cho làm nữa thì chết đói. Được lĩnh ruộng, người tá điền phải làm ăn vất vả và khổ sở, bị điền chủ bóc lột đến tận xương tuỷ. Một tá điền trong Đời cô Lựu đã nói: “Mấy người giỏi nịnh chủ, kẻ thế gì thì kẻ đi, kẻ sao cho vợ chồng tôi bị đuổi, đó cũng như mấy người làm phước giùm, chớ ở đây mà ăn lộc thực gì, theo riết hai dây ruộng đó có ngàn bán vợ đợ con mà đóng cho chủ cũng không đủ”.

Tuy vậy, tá điền vẫn cứ lạy lục điền chủ cho mướn ruộng. Vì có ruộng mướn, may ra còn có cái ăn, còn vay nợ chủ được. Nghĩa là người này bị kẹp giữa hai gọng kìm, bề nào cũng chết, đành chọn cái chết nào chưa đến ngay. Ông chủ chỉ nói “tao lấy ruộng lại” đó là lời tuyên án tử hình đối với tá điền và tất cả gia đình. Cho nên, khán giả đã thấy Hội đồng Thăng chỉ cần sai đứa học trò bảo Năm Vàng bắt cho một cặp gà giò là lập tức Năm Vàng đem cặp gà đến ngay. Và Hội đồng Thăng chỉ cần doạ thị Nguyên: “Tôi lấy ruộng lại hết rồi chết đói cả đám”, là thị Nguyên vội vã “có chục khô cá chạch đặng ông chủ uống rượu chơi”.

“Những người Việt Nam nói chung, đều phải è cổ ra mà chịu những công ơn bảo hộ của nước Pháp. Những người nông dân Việt Nam nói riêng lại càng phải è cổ ra mà chịu sự bảo hộ ấy một cách thảm hại hơn: là người Việt Nam họ bị áp bức; là người nông dân, họ bị người ta cướp đoạt” (Nguyễn Ái Quốc: Bản án chế độ thực dân Pháp).

Gia đình Hai Thành đã è cổ ra mà chịu “những công ơn bảo hộ” của nước Pháp. Hai Thành đang sống nghèo nàn nhưng tương đối yên ổn và hạnh phúc, bỗng nhiên bị khám nhà, bị bắt, bị tù, bị kết án hai mươi năm, đày đi Côn Đảo, mất vợ mất con, nhà cửa tan hoang. Nỗi oan ức ấy kêu trời không thấu.

Nhưng nỗi oan của Lựu lại còn cay đắng hơn nữa. Chồng bị bắt, gia đình tan nát, chịu nỗi nhơ nhuốc mong gỡ được tội cho chồng mà chồng vẫn bị tù, cắn răng sống đau khổ nhục nhã để giữ hạt máu của chồng, mà đẻ con ra con bị chết. Thế mà còn bị chồng căm giận khinh khi. Sau 19 năm trời đắng cay tủi nhục, giờ phút biết chồng con còn sống, được gặp lại chồng con, thanh minh sự hiểu lầm, đợt sống trầm luân nọ chưa qua thì đợt sống trầm luân mới đã dội đến. Con trai phạm tội sát nhân, con gái phát điên.

Kẻ tự tay gây ra tất cả những điều oan trái ấy là Hội đồng Thăng. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là sâu xa chính là chế độ xã hội ấy. Phơi bày được những sự kiện ấy trên sân khấu, vở Đời cô Lựu là một bản cáo trạng cụ thể, một bản phụ lục Bản án chế độ thực dân Pháp.

Đời cô Lựu là một tác phẩm có giá trị của dòng văn học hiện thực phê phán, viết về nông dân cùng với Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Chí Phèo của Nam Cao.

Đời cô Lựu cũng có những hạn chế chung của các tác phẩm hiện thực phê phán trước Cách mạng Tháng Tám. Kết thúc của nó là một kết thúc bi kịch: Kim Anh điên, cô Lựu đi tu. Số phận của Hai Thành và Minh Luân chưa được giải đáp.

Nhưng vở Đời cô Lựu cũng có một số điểm trội, cần đánh giá đúng.

Điểm thứ nhất là sự kiện Hai Thành vượt ngục, vượt đảo trở về đất liền.

Côn Đảo là một nhà tù của thực dân Pháp chủ yếu để giam cầm những người yêu nước. Nhiều thế hệ chiến sĩ chống xâm lăng từ những cuộc kháng Pháp, khi Pháp mới đặt chân lên nước ta, đã bị đày ra Côn Đảo. Sau phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, số chiến sĩ cách mạng bị đưa ra Côn Đảo rất nhiều. Nhưng từ năm 1933 đã bắt đầu có những cuộc tổ chức vượt ngục. Các chiến sĩ từ đảo về, cùng với các chiến sĩ trốn ở Thái Lan, các chiến sĩ ở Pháp, ở Trung Hoa về nước, lần lần gây lại cơ sở ở thành thị và ở nông thôn.

Soạn giả Trần Hữu Trang cho Hai Thành vượt ngục trở về được đến quê hương. Hai Thành bị kết án 20 năm, đến năm thứ 19 còn vượt ngục, điều này chứng tỏ chế độ nhà tù của thực dân dù khắc nghiệt, dã man nhưng không thể khuất phục được ý chí của con người.

Cuộc vượt ngục không phải ít gian nan. Hai Thành nói (ca lý Huế):

Bác ơi, sá quản bao muôn điều khổ cực

Trọn mấy tháng trường gian nan

Mười mấy ngày ròng rã lênh đênh trên mặt bể, chừng tấp vào nội địa, cháu phải lẩn lút mấy tháng trường mới về nhà.

Côn Đảo không làm tiêu tan được chí khí, trái lại còn hun đúc chí khí của những người bị tù. Hai Thành trước khi bị oan, là một nông dân nghèo, có biết ít chữ nghĩa, thật thà, tin người. Hai Thành đã nói với con: “Cha là môn đệ nhà Nho, bấy lâu cha một mực thanh liêm trung tín, có tiền kháng xa hoa, đói nghèo không dua bợ, cố giữ sự chân thành, cha đem sự hiền lành ra ở với đời”.

Sau những năm tù ở Côn Đảo, Hai Thành không duy trì cái nếp suy nghĩ “nhà Nho” ấy nữa.

Khi Hương lão khuyên:

“Cháu ơi, thiện ác đáo đầu, cháu cứ tin: hễ trồng dưa thì không bao giờ hái đậu, thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu, những kẻ ám hại cháu trước kia nó đã làm một việc vô lương, lưới pháp luật dẫu chưa vương, nhưng sự thưởng phạt của cao minh huyền diệu vô cùng.

Cháu cầm như năm vận tháng hạn, tai nạn đã qua rồi, niềm ân oán đừng bận tâm lo nghĩ tới, ơn nghĩa vợ chồng bác không cần cháu trả, mà cừu hận theo như ý bác cháu cứ thản nhiên rồi thế cuộc sẽ xoay vần, sớm muộn gì cái tội nó làm thì trời đất cũng không dung”.

Hương lão là một người tốt. Nhưng Hương lão như số đông Nhân dân ta trước kia dưới ách thực dân phong kiến mang một nhân sinh quan duy tâm, tin số mệnh, tin trời Phật, do đó thụ động tiêu cực.

Hai Thành trước khi ra đảo cũng thế, nhưng những ngày ở đảo đã thay đổi cách nhìn, cách nghĩ của anh… Hai Thành trả lời Hương lão và Minh Luân:

“Con ơi, ba cảm động lắm. Bác ơi, lời vàng ngọc bác chỉ dạy, cháu dám đâu chẳng vâng theo, luật nhân quả cháu vẫn tin, những nỗi oan ức 19 năm, đầy một trời uất hận, bác cho phép cháu trang trải theo ý cháu để cho cháu được một chút hài lòng, rồi thì cháu phải đi vì tình cảm cháu không thể nào ở đây mà nhìn lại một vùng tang thương…”.

Sau này, Hai Thành cùng nói với Lựu:

“… Sống nơi Hải đảo Côn Lôn, tôi đã học khôn được những điều mà trước kia tôi trót dại…

… Bao nhiêu năm đã thay đổi quan niệm của tôi, nay là một thằng Thành đội trên đầu 19 năm tù, chớ chẳng phải là thằng Thành quá tin đời là chân thật như ngày xưa”.

Điểm thứ hai là soạn giả để Minh Luân đâm chết Hội đồng Thăng.

Ta nhắc lại lớp này:

Ông Hội đồng: Mầy là một thằng tù vượt ngục lại còn dám đương đầu lớn lối với tao, xảy ra những chuyện rắc rối này cũng tại nơi mầy về đây mà gây ra cả. Bây giờ muốn cho yên ổn mọi việc tao phải tống cổ mầy trở ra Côn Đảo. Tao sẽ cho mầy ở tù rục xương đặng cho mầy lớn lối với ai cho biết.

(Gọi) Sốp phơ! (dạ!) Mầy quay xe báo với Sở Mật thám lập tức, nói có một thằng tù Côn Lôn vượt ngục hiện tại nó ở đây, cho mau lên!

Minh Luân: Ông Hội đồng, ông thật kêu lính tới đây bắt cha tôi phải không?

Ông Hội đồng: Tao sẽ cho cha con mầy ở tù rục xương!

Minh Luân: Ông thật là táng tận lương tâm. Ông kêu lính tới phải không?

Ông Hội đồng: Tao sẽ cho cha con mầy ở tù rục xương!

Minh Luân: Tôi sẽ cho ông một dao về chầu Diêm vương (đâm).

Tự miệng Hội đồng Thăng nói vì Hai Thành về nhà xảy ra những chuyện rắc rối. Vậy y muốn yên ổn thì phải tống Hai Thành ra Côn Đảo ở tù rục xương. Nghĩa là hai người mâu thuẫn đối kháng, có bên này không thể có bên kia. Khi Minh Luân hỏi lại, Hội đồng Thăng nói bổ sung: Tao sẽ cho cha con bây ở tù rục xương. Nghĩa là y quyết tâm bảo vệ địa vị, những đặc quyền đặc lợi của y, và muốn thế, y không những thủ tiêu Hai Thành mà cả con Hai Thành nữa cho tuyệt giống. Ý định của y rất quyết liệt. Y nhắc câu này hai lần. Vì vậy cho nên Minh Luân phải hạ sát y, không thể có con đường nào khác.

Đưa hai sự kiện này lên sân khấu, soạn giả Trần Hữu Trang đã thấy rõ con đường tự cứu của những người nông dân chỉ là con đường đấu tranh. Không thể chờ đợi một sự nhân đạo nào ở bọn cai trị, không thể có giải pháp dung hoà, thoả hiệp nào, cuộc đấu tranh phải triệt để.

Sau này, Trần Hữu Trang có dịp nói rõ ý định mà ông không thực hiện được trong bức thư ngày 26/6/1965 gửi soạn giả Sỹ Tiến nhân dịp với Đời cô Lựu được đưa ra công diễn ở Hà Nội, Hải Phòng:

“Như anh đã biết, vở ca kịch Đời cô Lựu tôi viết vào khoảng 1936, hồi ấy trong một hoàn cảnh bế tắc dưới chế độ của thực dân Pháp, nên về nhận thức cuộc sống cũng như cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề của tôi trong vở Đời cô Lựucũng bị hạn chế. Cuối vở kịch, giết tên Hội đồng Thăng là giải quyết một cách dứt khoát kẻ sâu độc gian ác phải đền tội, nhưng lại để cô Lựu đi tu là tiêu cực. Sau đó, tôi muốn làm một cảnh vĩ thanh, cảnh hai cha con Hai Thành dìu nhau đi đến một chân trời mới, nhưng kiểm duyệt của chúng lúc đó không cho…”.

Đời cô Lựu là một vở cải lương đặc sắc. Giá trị hiện thực của nó là ở chỗ đã thể hiện được một số mặt của hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta trước Cách mạng Tháng Tám 1945, mâu thuẫn giữa Nhân dân thuộc địa và đế quốc thực dân, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ. Soạn giả đã xây dựng được những hình tượng nghệ thuật có sức tố cáo khá mạnh và cảm hoá sâu sắc khán giả. Viết và diễn trong thời kỳ Mặt trận bình dân, vở Đời cô Lựu có một tác động quan trọng đến công chúng. Trên các sân khấu, từ Nam đến Bắc, đâu đâu vở cải lương Đời cô Lựu cũng được hoan nghênh nhiệt liệt.