Ký ức mùa nước nổi miền Tây

Từ hàng vạn năm nay miệt mài không ngừng nghỉ, nó đã mang biết bao nhiêu phù sa từ cao nguyên Tây Tạng, từ đất Trung Hoa, cả những chất màu mỡ trên đường nó đi qua Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambot để xuống đến đây. Chính nó đã lấn biển, thêm rừng, bồi đắp nên đồng bằng xứ Nam Việt, nơi chúng ta đang đặt chân lên và gửi gắm cho nó cả cuộc sống

Xa quê đã hàng chục năm trời, tôi chưa có dịp quay lại mảnh đất miền Tây yêu dấu, nhưng trong lòng tôi luôn khắc khoải một nỗi nhớ quê hương. Đêm qua, tôi lại mơ thấy mình được ngồi xuồng cùng ba, lênh đênh giữa cảnh trời nước liền nhau của miền Tây mùa nước nổi, giống như một ngày tháng 9 những năm đầu thập niên 70 thế kỷ trước, lúc tôi lên 12, khi nước lũ về khiến làng quê bồng bềnh trong biển nước; những cánh đồng, những lũng cạn từ từ biến thành trắng xóa mênh mông.

Là người gốc Bắc, làm giáo sư ở một Viện đại học, nhưng ba đã rời Sài Gòn từ hơn nửa thế kỷ trước để về sống ở miền Tây, lúc đầu là ở mảnh đất Đồng Tháp. Người lấy má tôi là một cô thôn nữ địa phương xinh xắn đảm đang. Rồi anh em chúng tôi ra đời trong lúc ba má cứ đi lại dọc ngang trên sông nước miền Tây, vừa để mưu sinh, vừa để thỏa mãn cái thú “xê dịch” mà chính ba tôi – một trí thức yêu tự do, yêu thiên nhiên và những tâm hồn thuần hậu chân chất – đã truyền cho cả gia đình. Cũng có khi chúng tôi dừng lại một thời gian ở một nơi nào đó bên bờ nước, dựng một ngôi nhà tạm vách đất, mái lợp cỏ bàng, cỏ lát, hoặc một ngôi nhà sàn bằng gỗ cây chàm, lợp lá dừa nước. Ở chán rồi lại đi. Miền Tây đủ rộng cho thú ngao du của chúng tôi. Có thể nói, chúng tôi đã sớm coi nơi đây như quê nhà.

Sáng sớm, khi má và các em còn đang ngủ, từ xóm nhà lá, hai cha con tôi đã ngồi trên chiếc xuồng tam bản để chuẩn bị ra đồng. Xóm nhà lá có chừng đôi chục (1) ngôi nhà sàn dựng gần sát nhau. Xưa kia, người dân thường làm nhà trên những gò cao hơn mặt đồng chừng một vài mét, gọi là Giồng. Nhưng khi dân cư đến ở ngày càng đông hơn, số lượng Giồng cũng có hạn, nên để tránh lũ, người ta làm nhà sàn để ở.

Những ngôi nhà sàn sơn màu xanh đỏ hắt bóng xuống dòng nước đục nhờ nhờ thật vui mắt. Lúc này, nước chỉ cách mặt sàn chừng đôi ba chục phân. Xung quanh xóm nhà lá, bên những gốc dừa, có những ông lão ngồi trên xuồng tam bản buông câu lơ đãng như một thú vui chứ chẳng phải vì cá, bởi cá lội dưới sàn nhiều không đếm xuể, lũ trẻ chỉ cần phóng đinh ba xuống nước là trúng cá, các bà ngồi rửa chén cũng có thể tiện tay chém được những con cá lóc lớn.

– Ủa, giáo sư lại ra đồng hén? Một ngư ông da bánh mật, mặt mũi nhăn nheo, cười hồn hậu hỏi ba.

– Chết nỗi, cụ cứ gọi tôi là Hai Hành thôi. Vâng, cha con tôi ra đồng.

– Nếu giáo sư ra đồng kiếm cá thì khỏi, giáo sư sang tui mà lựa tẹt ga, cá bự chà bá, cỡ nào cũng có hết á. Mấy hổm rày, tui bắt được lắm à nhen.

– Tạ ơn cụ. Cha con tôi đi việc khác. Cụ ngồi câu vui vẻ nhé.

Có một vài người địa phương biết ba tôi đã từng làm giáo sư đại học, vậy nên bà con vẫn gọi ba tôi là giáo sư. Những người dân quê chân chất chưa từng biết chữ nhưng lại rất trọng những người có học vấn và đạo đức. Tuy vậy, ba tôi là người giản dị, chẳng bao giờ lên mặt với ai, ba rất yêu quý và sống chan hòa với những tâm hồn thuần hậu nơi đây.

Chiếc xuồng hướng mũi ra cánh đồng nước mênh mông trắng xóa, mái dầm nhịp nhàng khua nước theo sự điều khiển khéo léo của ba tôi. Thân thể ba cao lớn, vững chãi, nước da ngăm ngăm, áo nâu khăn rằn, cánh tay gân guốc và động tác uyển chuyển, thành thử trông ba không khác gì một ngư phủ địa phương; chỉ có vầng trán cao rộng, đôi mắt sáng, ánh mắt sắc và thâm trầm của một người có tư duy và trải nghiệm sâu sắc… phân biệt ba với những người dân quê chất phác. Người ta có thể yên tâm đi với ba trên các kênh rạch đến cùng trời cuối đất.

Nước vẫn đang lên và nắng cũng đang lên màu sóng sánh và ngọt như mật ong rừng, cái nắng hiếm hoi giữa mùa nước nổi. Được cái, nước lụt ở đây lên từ từ, mỗi ngày chừng đôi ba chục phân là nhiều. Ba nói ở mùa nước nổi của miền Tây, nước không dâng lên và rút đi chớp nhoáng như ở Bắc và Trung kỳ để gây nhiều tai hại, trừ một số ít những năm lụt lớn.

– Sao vậy hả ba? Tôi hỏi

– Chính là nhờ Biển Hồ Tonle Sap ở Cambot (2) và hai cánh đồng lớn: Đồng Tháp và Cà Mau đóng vai trò làm túi chứa nước. Rồi còn nữa, nước mưa trên thượng nguồn của dòng Mekong được rừng giữ lại bớt nên lũ về không ồ ạt. Trước khi nước nổi lại có những báo hiệu trước, ví như nước chuyển màu đỏ đục, gọi là “nước quay”, hoặc khi thấy có những mảng lục bình hay rau muống từ trên những cánh đồng ở Cambot trôi xuống đây mà người ta có thể chuẩn bị trước.

Trước mắt tôi là một mảng lục bình đang dập dềnh dưới chân một cụm dừa nước lớn, những cây dừa nước với tán lá xanh ngắt cao đến 9m đu đưa trong gió. Người dân nơi đây dùng lá dừa nước để lợp nhà; cơm dừa là món giải khát ngọt nhẹ, mềm dẻo, bùi bùi, thanh thanh. Dưới chân đám dừa nước là cả một thế giới thủy sản phong phú.

– Vậy thì đây là nước của dòng Mekong phải không ba? Mekong là sông gì ạ?

– Đúng vậy con ạ. Mekong là con sông lớn của thế giới. Bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng ở Tây Tạng, nơi quanh năm tuyết phủ, nó chảy băng qua những dãy núi trùng điệp của Trung Hoa, nơi nó được gọi là Lan Thương Giang và hạ phần lớn độ cao cũng như trải một nửa độ dài trên mảnh đất ấy. Rồi nó xuyên qua đất Miến Điện trong những khu rừng rậm rạp; mở ra rộng mênh mang đến vài cây số trên đất Luang Prabang của xứ Vạn Tượng – Lào; tạo thành biên giới tự nhiên của Lào và Thái Lan, nơi xuất phát cái tên Mekong của nó; rồi nó đổ sầm sập từ trên cao 18 thước ở thác Khone, gần biên giới Cambot và nghỉ ngơi trên Biển Hồ Tonle Sap của xứ Chùa Tháp trước khi len lỏi trong những vườn trái cây và trên những đồng nước này của miền Tây. Ở Việt Nam ta, nó mang một cái tên khác: Cửu Long Giang, với những phân lưu là Tiền Giang (sông Tiền) và Hậu Giang (sông Hậu).

– Con vẫn chưa hiểu ngoài việc đem nước về thì Mekong có ý nghĩa gì đối với cuộc sống của chúng ta?

Ba tôi trầm ngâm một lúc, rồi người chỉ tay xuống dòng nước bảo:

– Con hãy trông dòng nước đục này, mỗi giây con sông Cửu Long đem tới 6000 mét khối nước vào mùa khô, còn mùa mưa là gấp đôi con số đó. Trong mỗi mét khối nước có chừng nửa ký phù sa. Từ hàng vạn năm nay miệt mài không ngừng nghỉ, nó đã mang biết bao nhiêu phù sa từ cao nguyên Tây Tạng, từ đất Trung Hoa, cả những chất màu mỡ trên đường nó đi qua Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambot để xuống đến đây. Chính nó đã lấn biển, thêm rừng, bồi đắp nên đồng bằng xứ Nam Việt, nơi chúng ta đang đặt chân lên và gửi gắm cho nó cả cuộc sống. Phù sa và nước đã tạo nên cả một thế giới trù phú này. Vậy con nói xem Mekong có ý nghĩa gì với chúng ta không?

Như để chứng minh lời ba nói, hàng đàn cá lớn đi mừng nước mới làm đen cả vùng nước bên dưới xuồng tam bản. Những con cá lóc, cá trê, cá tra… to như bắp vế người lớn nhiều vô số kể. Xuồng chúng tôi bơi ngang qua những giồng cao giữa đồng, trên đó đậu cơ man nào là cò, là trích (3); cả rùa, rắn, cua đinh (baba)… cũng bò lên giồng. Trên trời rộn rã tiếng chim, dưới nước lao xao tiếng cá quẫy. Tôi lại nhớ câu thơ của Tế Hanh mà thi thoảng ba vẫn đọc tôi nghe: “Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu. Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy”.

– Ba, con muốn tấp vào giồng kiếm ít trứng chim.

Ba cười rạng rỡ lộ hàm răng trắng lóa đều tăm tắp, cặp mắt sáng thông minh ánh lên niềm vui.

– Được, lúc về ba sẽ đưa con lên đó nhặt ít trứng chim và bắt rùa, cua đinh về đổi món. Ở đây, ta đâu có lo đói. Người miền Nam nói chung, miền Tây nói riêng chẳng bao giờ lo đói rét. Thọc tay xuống nước có cá, ra đồng có chim trời, rau dại mọc khắp nơi, nhiều loại rau ăn được: từ bông điên điển, bông súng, củ sen, hạt sen đến đọt xoài, bằng lăng… nhiều vô số kể. Còn hoa trái ư? Lên vườn là đủ loại hoa thơm trái ngọt trĩu cành: xoài, cam, chôm chôm, măng cụt, mãng cầu, sầu riêng, sapoche (hồng xiêm), thơm (dứa)… Còn lúa gạo? chẳng phải gieo cấy vất vả, chỉ cần gieo sạ là có lúa ăn. Con xem chẳng phải ông Trời biệt đãi dân Nam chúng ta là gì, thông qua nước và phù sa của sông Mekong đấy.

– Con trông kìa, ba sẽ cho con thấy.

Ba tấp xuồng vào gần một vùng thực vật trông vừa giống lúa, vừa giống cỏ. Thân cây dài, phần nhô lên khỏi mặt nước cũng đến 2 mét.

– Đây gọi là lúa ma, cũng gọi là lúa Trời, một đặc trưng của đất Đồng Tháp. Nó là lúa dại, tự mọc, thân dài, hạt nhỏ, vỏ đỏ, vị đậm đà, nấu lâu chín hơn lúa thường. Lúa chín vào khoảng tháng 11 và chín vào ban đêm. Khi khai thác thì dùng hai cây sào đập vào bông lúa và hứng mền ở dưới. Con xem, không mất công trồng mà có cái ăn, chẳng phải của Trời cho là gì. Cũng như Trời đã cho người dân miền Tây chim trời, cá nước, rau tươi, hoa trái trĩu cành… con người ngày nay không cần quá vất vả, chỉ cần để cho thiên nhiên được yên, đừng can thiệp thô bạo vào nó là sẽ sống khỏe.

– Vậy người miền Tây sung sướng quá phải không ba?

Ba bỗng trở nên ngậm ngùi, đôi mắt nhìn xa xăm như nhớ về quá khứ.

– Nhưng chẳng bỗng dưng mà có được mảnh đất phì nhiêu màu mỡ này đâu con. Đó là công sức của bao nhiêu thế hệ người Việt, mồ hôi, nước mắt và cả máu của họ đã đổ xuống suốt dọc chặng đường mở đất đó.

– Ba kể cho con đi ba.

– Đi lại khó khăn, ít đường đất, lắm sình lầy. Giữa đồng nước, nắng chiếu trên cao xuống, hơi sình lầy dưới nước bốc lên, cỏ, sậy lại mọc cao quá đầu người nên gió không lọt vào đồng, nóng như hầm và sinh ra nhiều chướng khí. Lá cỏ lắm khi sắc như dao cứa đứt chân tay, lội đìa cũng dễ thụt lún chết người. Đó là cái nguy hiểm của địa hình cây cỏ. Dưới nước đỉa nhiều, mỗi con to như ngón cái; trên bờ bụi muỗi đông như cỏ, đặc như mây; rắn to rắn nhỏ nhiều vô kể; dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua … thiên nhiên nơi đây đã từng cực kỳ nguy hiểm, con người mất mạng cho nó không phải là ít. Mà nào chỉ có thế.

– Thế còn chưa đủ sao ba? Con nghe đã rùng mình ba à.

Ba tôi nhìn những thân lúa dập dờn theo ngọn gió, giọng người vừa có chút thương cảm, lại rất đỗi tự hào:

Rừng thiêng nước độc dù hiểm trở vẫn không gây tai hại cho những người mở đất bằng nhân họa. Kể từ khi các chúa Nguyễn cùng những lưu dân khai khẩn đất này, họ đã phải tốn bao xương máu để bình định các thế lực địa phương: người Miên, người Chân Lạp. Kẻ địch mạnh nhất trong khu vực này là người Xiêm, những người luôn thèm khát vùng châu thổ màu mỡ và sẵn sàng tràn xuống theo lối Biển Hồ. Chỉ chừng 90 năm từ 1690 đến 1780 mà những người mở đất theo chúa Nguyễn đã chiếm cứ hết cả vùng đồng bằng sông Cửu Long, mở ra cho Việt Nam một cuộc đất rộng lớn hơn mấy trăm năm trước cộng lại. Đất rộng, dân thưa mà ý thức cộng đồng làng xã chưa hình thành và phát triển vững mạnh như phần Bắc và Trung kỳ vốn có thời gian ổn định lâu hơn. Vì vậy, hết Xiêm La và sau này là Pháp quốc, họ đều chọn đánh vào vùng đất khó phòng thủ dễ tấn công này. Con nhớ bài học lịch sử không? Nam Kỳ lục tỉnh bị Pháp tấn công hai lần, lần đầu vào 1860 và những năm kế tiếp, lần sau là 1945… vậy đấy, bao nhiêu xương máu của con người nơi đây mới giữ được vùng châu thổ phì nhiêu này cho con cháu chúng ta thụ hưởng.

Một đàn cá đen nhảy rào rào trên mặt nước, thân đụng cồm cộp vào chiếc tam bản. Mắt ba sáng lên, người sang sảng đọc hai câu ca dao:

“Bao phen quạ nói với diều

Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm”

Con có biết cù lao ông Chưởng giàu có đó ở đâu không? là ở An Giang đấy, nơi rạch Ông Chưởng nối sông Tiền và sông Hậu. Còn ông Chưởng là danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh, một trong những người có công lớn nhất trong việc khai phá miền Nam từ thế hệ các chúa Nguyễn đầu tiên. Ngoài ông ấy, còn biết bao những danh nhân khác mà cuộc đời đã hiến dâng cho mảnh đất này. Từ những văn thần võ tướng người Bắc kẻ Nam như Nguyễn Cư Trinh, Thoại Ngọc Hầu, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương… đến cả những người Trung Hoa tị nạn như cha con Mạc Cửu, đều có công khai phá, đánh dẹp; lại có những người con của miền Tây sẵn sàng chết trong cuộc chiến với người Pháp để giữ lấy vùng đất yêu dấu như là Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Trương Định, Nguyễn Trung Trực… con ơi, cứ nhắc đến những cái tên ấy là lòng ba lại trào dâng niềm xúc động và biết ơn.

Tôi kéo ba ra khỏi phút trầm ngâm xúc động bằng cách tuốt một cọng lúa ma.

– Ồ hết sảy ba ơi, sao thân lúa dài thế ba nhỉ.

– Nó ngoi lên mặt nước lụt mà. Nước cao đến đâu nó cũng không bị ngập, nó cũng giống người dân miền Tây đấy con: dân dã, tự nhiên, chân thật, rộng rãi và kiên cường.

Vừa lúc đó, một âm thanh từ ngoài xa vẳng đến:

Hò ơ ơ ớ ớ… “Ngó qua sông Tiền thấy mênh mông sông nước. Dòm về Thường Phước thấy sóng bủa lao xao. Thấy cặp cá đao nó nhào vô lưới. Ôi biết chừng nào anh cưới được em?”.

– Cụ Năm Hò đó con. Ba tôi khẽ cười. Ta ra thăm cụ chút.

Giữa cánh đồng nước, một chiếc xuồng tam bản lớn đang trôi dập dềnh. Một lão ngư phủ tráng kiện tay quăng mẻ lưới xuống mặt nước lấp lánh ánh vàng, miệng hò, giọng hò cao vút, ngọt ngào theo gió lan tỏa vào không gian, vang vang trên mặt nước. Chẳng ai ngờ nó là của một ông lão đã ngoài sáu mươi.

Chúng tôi đã đến sát thuyền của cụ Năm Hò.

– Chào cụ Năm, cụ hò hay quá.

Tôi cũng khoanh tay chào cụ. Cụ Năm Hò chào lại:

– Dạ, tui chào cha con giáo sư. Giáo sư quá khen.

– Cụ đang bắt cá gì đó?

– Tui quăng lưới cho zui thôi giáo sư. Mấy hổm rầy tui kéo được đủ rồi. Cha chả, cá linh nhiều quá trời giáo sư ơi. Tui ăn đến mát trời ông Địa, làm mắm không hết. Hổm bữa kéo nhiều quá sợ rách lưới tui lại phải thả xuống. Giáo sư cầm tạm chục ký này về nấu với bông điên điển cho sấp nhỏ ăn.

Những bụi điên điển mọc ở nơi trước kia là bờ ruộng, nay cũng chìm trong nước, lá điên điển xanh um nhưng hoa nở vàng ruộm, tô điểm chút màu sắc tươi sáng cho vùng châu thổ mùa mưa lụt. Tôi bảo đi hái nhưng ba ngăn lại nói: “không ai hái bông điên điển lúc sáng, khi nụ hoa đã nở, ong đến bướm đi, bông không còn mật ngọt, độ bùi thơm nữa. Phải hái vào buổi chạng vạng tối, lúc bông vừa hé nhụy. Khi hái nhớ nâng niu, tuốt nhẹ, để dập cánh mất ngon”.

Ba cảm ơn cụ Năm Hò và xách mớ cá về xuồng. Ba bảo: “người nơi đây thực lòng lắm, con không nhận là họ giận đấy”. Rồi ba con tôi bơi xuồng đi tiếp.

Trời đang nắng, bỗng chốc mây đen kéo đến rồi mưa lớn rơi xuống thật nhanh, người nơi đây gọi là “mưa đồng”. Ba dựng mái tam bản lên che mưa. Dưới nước, trâu nối đuôi nhau bơi thành đoàn. Ba bảo: “giờ là mùa len trâu đó con”, những con trâu băng đồng tìm cỏ và chỗ đất cao để tránh nước.

Mưa rơi trắng đồng, sóng gió nổi lên khiến người ta liên tưởng tới khung cảnh hàng nghìn năm trước, lúc nơi đây còn là biển cả. Nhưng mưa càng lớn, nước lên càng mạnh thì tôm cá lại về càng nhiều.

Ba tôi nhìn về phía chân trời, vẻ tư lự buồn, người đọc câu thơ trong bài “Qua sông” của Tô Thùy Yên:

“Mùa mưa như một trận mưa liền

Châu thổ mang mang trời nước sát

Hồn chừng hiu hắt nỗi không tên…”

Chiếc tam bản của chúng tôi vẫn trôi theo dòng. Mưa chừng hai tiếng mới dứt hẳn. Khí trời trong trẻo và hơi lành lạnh. Gió thổi hiu hiu. Trong không gian sực nức hương tràm, hương mù u theo gió từ đâu đưa lại, hình như lại có phảng phất hương sen. Đi thêm chừng một cây số nữa, xuồng chúng tôi đến một hồ sen đang nở. Giữa một vùng lá màu xanh nhạt, to bản, hàng nghìn bông màu hồng đỏ vươn cao, nở ra những đóa hoa cỡ đại rực rỡ; không khí thơm phức mùi sen, gió hây hẩy thổi khiến cánh hoa rung rinh, càng đưa hương sen đi xa bát ngát. Tôi lười nhác nằm gác đầu lên thành xuồng ngắm ráng chiều đỏ hây hây. Sau mưa, nước đã trong hơn, ánh hồng loang loáng, không biết nước phản chiếu màu sen hay màu trời. Ngoài xa xa, một đàn cò trắng muốt bay là là mặt nước. Cha con tôi im lặng tắm mình trong hương sen ngào ngạt, chỉ sợ một lời cất lên sẽ phá vỡ không gian thanh khiết thiêng liêng này của cảnh thiên đàng dưới thế. Ước chi cảnh tượng này kéo dài vĩnh viễn trên vùng châu thổ.

Bỗng tôi giật mình tỉnh giấc. Té ra chỉ là một giấc chiêm bao. Tôi thấy lòng mình như thắt lại. Ba đã mất vài năm trước ở thành phố. Mùa nước nổi giờ cũng không còn nữa.

Và Mekong cũng đang hấp hối.

Nước mắt vùng châu thổ

Có nghĩa là nếu “sữa mẹ Mekong” không về thì biển sẽ lấy lại những gì đã từng thuộc về nó. Khi miền Tây mất mùa nước nổi, nước biển sẽ xâm nhập ruộng đồng theo con nước thủy triều, gây nên nhiễm mặn cho đất và nước. Đất mặn thì cây khô, cây khô thì dân khổ. Môi sinh bị tàn phá, động thực vật tàn lụi, con người sẽ sống ra sao khi đồng khô cỏ cháy?

Chúng ta đã theo dòng ký ức của một người miền Tây đứng tuổi trở về với vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ trước với hồi tưởng về trang sử hào hùng của những người con nước Việt đi mở đất ở phía trời Nam; Kết quả là dòng sông Mekong ăm ắp nước ngọt nước lành và vô tận phù sa màu mỡ đã trả ơn xứng đáng cho công lao khai phá của bao thế hệ người dân Nam Bộ bằng một vùng đồng bằng phì nhiêu, giàu có với chim trời cá nước, cây trái sum suê… tưởng như thiên đàng dưới thế ấy sẽ trường tồn như lịch sử mấy nghìn năm của dòng Mekong.

Nhưng rồi một ngày, Mekong không còn nước. Và tai họa bắt đầu. Tai họa ấy là gì? Do đâu mà có?

Cá “lỉnh” cá linh, bao giờ ta lại gặp mình, cá ơi?

Biển Hồ (Tonle Sap) là hồ nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á và được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới năm 1997, nó cung cấp 1/2 tổng sản lượng cá đánh bắt được cho Campuchia. 60% nước của Biển Hồ đến từ sông Mekong. Người Campuchia sống nhờ vào nguồn cá dồi dào của Biển Hồ trong suốt nhiều thế kỷ qua, nhưng đến nay, cá đang ít dần đi.

Một ngư dân trên Biển Hồ nhớ rằng vào năm 1979, ông chỉ cần thò tay xuống nước là có thể bắt được nhiều cá, còn giờ đây ông thả lưới lớn cả ngày cũng không bắt được gì.

Một nghiên cứu năm 2018 của ông Ngor Pengbun, chuyên gia cơ quan quản trị ngư nghiệp của Campuchia, cho thấy cá đang bị tận diệt. Khi các sông giảm số lượng cá lớn và trung bình, người dân Campuchia phải ăn luôn cá nhỏ mà không kịp chờ nó lớn. Tổng sản lượng đánh bắt cá nhỏ đã tăng từ 5% từ năm 1995-2000 lên 14% vào năm 2013-2014.

Thiệt hại này chẳng phải chỉ có mình người dân Campuchia hứng chịu. Người dân miền Tây đã bao đời nay “sống khỏe” với thủy sản mùa nước nổi. Cá linh – loài cá đặc trưng của mùa nước nổi – cách đây mấy chục năm có thể dùng thùng vục xuống nước mà xúc. Cá ăn không xuể, làm mắm không hết, phải đổ làm phân bón. Thời ấy, cá linh được trao đổi theo đơn vị giạ như giạ lúa, giờ đây người ta buôn bán theo cân, mà cũng không phải dễ có mà bán mà mua.

Cá linh không còn nhiều như trước, các loài cá khác cũng “lỉnh” đi đâu hết.

Cá ngày càng ít đi khi con nước cạn dòng, nhưng nhu cầu thì tăng lên theo dân số và các nguyên nhân xã hội khác, bởi vậy người ta phải dùng đến những phương pháp thu hoạch tiêu cực: lưới rê, chích điện… khiến tận diệt nguồn thủy sản, khan hiếm lại càng khan hiếm.

Mùa nước nổi đã “lặn” từ bao giờ?

Ngày 11-11-2015 đã diễn ra buổi hội thảo “Diễn đàn nhân dân khu vực Mekong” tại Đại học An Giang. Trong đó, các đoàn đại biểu cư dân địa phương ba nước Việt Nam, Campuchia, Thái Lan và các tổ chức quốc tế đã thông qua “Tuyên bố chung về tác hại của những đập thủy điện trên sông Mekong” gửi chính phủ các nước lưu vực Mekong. Người dân địa phương đã phản ánh những hậu quả do các con đập này gây ra ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh kế của họ như mất nguồn cá, nguồn nước, nguồn phù sa và gây nguy hại tới an toàn thực phẩm của họ.

Một nông dân từ xã Tân Trung, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang tên là Trương Văn Khôi kể lại rằng mấy năm rồi, ông cũng như bao người dân địa phương cảm nhận rõ những thay đổi của dòng sông, đó là vào Mùa Nước Nổi nhưng lũ rất thấp, đặc biệt năm 2015 gần như không có lũ. Nhà ông bên sông Vàm Nao, nơi hợp lưu giữa hai dòng Sông Hậu và Sông Tiền.

Tình trạng ấy đã lặp lại những năm gần đây.

Cũng chẳng lạ nếu miền Tây mất mùa nước nổi vì nếu ngược về phía thượng nguồn của dòng Mekong, người ta thấy Biển Hồ Tonle Sap ở Campuchia đang trơ đáy, còn ở đoạn trên của Mekong chảy qua Lào, người dân có thể đá bóng dưới lòng sông theo miêu tả trong một bài báo vào năm 2019 của tờ tuoitre.vn

Những quốc gia chung dòng Mekong đều chịu ảnh hưởng mạnh của dòng chảy suy giảm của con sông này trong những năm gần đây. Trong đó những tác động mạnh nhất có thể kể đến sự sụt giảm của nguồn nước, nguồn thủy sản, nguồn lương thực hoa màu, cấu trúc địa chất thổ nhưỡng, môi trường sinh cảnh, du lịch, văn hóa, giao thông…

Mặn ruộng đồng, đắng chát lòng người

“Đây con sông như dòng sữa mẹ, nước về xanh ruộng lúa vườn cây. Và ăm ắp như lòng người mẹ, chở tình thương trang trải đêm ngày…” đó là những ngợi ca một thời về con sông Vàm Cỏ Đông, một phụ lưu của dòng Mekong trên ĐBSCL. Dẫu những vần thơ ấy còn có những ẩn ý và mục đích khác nữa thì nó cũng đã sử dụng một hình ảnh so sánh ý vị sâu sắc và đầy cảm xúc. Nếu ví dòng Mekong như một người mẹ, thì người mẹ ấy đã hào phóng ban tặng cho những người con nước Việt dòng sữa màu chocolate từ những phù sa nơi thượng nguồn; dòng sữa quý giá ấy trong hàng nghìn năm đã bồi đất, lấn biển tạo nên một vùng châu thổ mênh mang trù phú để con dân nước Việt sinh cơ lập nghiệp. Đã bao đời nay, dòng nước “cam lộ” ấy chưa hề phụ bạc con người trong các nền văn minh ở hai bên bờ của nó. Những nền văn minh ấy có khi hòa bình, có lúc va chạm dữ dội với nhau nhưng chưa bao giờ họ đối xử thô bạo với dòng sông… cho đến những thập kỷ gần đây.

Trong tác phẩm “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười”, cố học giả Nguyễn Hiến Lê, nguyên là một kỹ sư đạc điền, cho biết “độ cao của vùng Đồng Tháp chỉ cao hơn mực nước biển từ nửa mét đến một mét”.

Có nghĩa là nếu “sữa mẹ Mekong” không về thì biển sẽ lấy lại những gì đã từng thuộc về nó. Khi miền Tây mất mùa nước nổi, nước biển sẽ xâm nhập ruộng đồng theo con nước thủy triều, gây nên nhiễm mặn cho đất và nước. Đất mặn thì cây khô, cây khô thì dân khổ. Môi sinh bị tàn phá, động thực vật tàn lụi, con người sẽ sống ra sao khi đồng khô cỏ cháy?

Thực tế là từ vài tháng đầu năm 2020, người dân vùng Đồng Tháp Mười một thời trù phú ấy đang gặp rất nhiều khó khăn vì hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn với nồng độ cao khiến nhiều loài cây bị héo, chết. Trớ trêu thay, nơi ngày xưa nước ngập mênh mang thì nay người ta phải đi mua từng khối nước một nếu không muốn dừng mọi hoạt động sản xuất. Trồng lúa, chanh, cam, thanh long… hay nuôi tôm thẻ, cá điêu hồng, rô phi, ếch Indo thì đều phải có nước. Mà nước ngọt là của Trời cho, sức người sao có thể bù đắp?

Brian Eyler, giám đốc chương trình Đông Nam Á thuộc Trung tâm Stimson, tác giả quyển Last Days of the Mighty Mekong – Những ngày cuối cùng của Mekong hùng mạnh, cho biết rằng mỗi năm có đến 300.000 người Việt phải rời bỏ ĐBSCL trong vài năm gần đây.

“Nước mất, nhà tan”, hình như câu nói ấy có nhiều tầng ý nghĩa hơn ta tưởng.

Eyler cũng đồng thời cho biết: Nhiều khu vực ĐBSCL, nơi sinh sống của 20% dân số Việt Nam, đang “lún” xuống biển. Thủ phạm chính là các con đập, ngoài ra còn do tình trạng khai thác cát và hiện tượng biến đổi khí hậu.

Một vài dữ kiện và số liệu đáng lo ngại về tình trạng nhiễm mặn và lở đất ở ĐBSCL

Nhà nông học Võ Tòng Xuân nói: “Chúng tôi đã chứng kiến những cánh đồng lúa lan rộng trong mùa khô trên khắp các vùng Đông Bắc Thái, Nam Lào và Cam Bốt, đã rút đi một lượng nước sông rất đáng kể trong vùng. Nhiều năm qua, nguồn nước cung cấp cho các vụ lúa mùa khô nơi ĐBSCL đã bị sút giảm nghiêm trọng, hậu quả là nạn nhiễm mặn tiến sâu vào đất liền xa tới 80km và gây tổn hại cho mùa màng”. (26-10-2013).

“Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) hình thành do sự bồi lắng của phù sa từ sông Mekong và dòng bùn cát ven biển tạo nên. Do vậy, ĐBSCL có cấu tạo nền địa chất rất yếu và rất dễ bị tổn thương. Năm 2010, ĐBSCL chỉ có 99 điểm xói lở và sạt lở; đến năm 2019 số điểm sạt lở đã lên đến 681 điểm, tăng gấp 7 lần. Trong đó, từ cuối năm 2018 đến đầu năm 2019, tỉnh An Giang xuất hiện 78 điểm sạt lở với trên 91,2 km bờ sông và tỉnh Đồng Tháp xuất hiện 52 điểm sạt lở dọc sông Tiền, sông Hậu, với tổng chiều dài và diện tích sạt lở 28,5 km và 17,98ha. Các điểm sạt lở này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân, gây cản trở giao thông nghiêm trọng”. (theo Báo An Giang).

Có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, nhưng các chuyên gia và các nhà môi trường học đều có chung nhận định: khi phù sa suy giảm, độ bồi lắng thấp cùng với đó là quá trình xâm thực của nước biển vào đất liền thì sụt lở ở ĐBSCL sẽ xảy ra và sẽ ngày càng nghiêm trọng nếu dòng chảy của sông Mekong thay đổi.

Trong cuộc hội thảo “Diễn đàn nhân dân khu vực Mekong” nói trên, một nông dân khác đến từ Cà Mau có tên là Huỳnh Thị Kim Duyên đã nói rằng những năm gần đây lượng nước đổ về ít làm giảm lượng phù sa nên đất mũi không còn bồi lấn ra biển như xưa, đồng thời cũng gây sạt lở, mất đất rừng ven biển. Vào tháng 10/2015 đã xuất hiện nhiễm mặn ở một số nơi.

Một nhạc sĩ nổi tiếng đã từng viết trong một bài hát như sau về mảnh đất Cà Mau – một tỉnh thuộc ĐBSCL, mảnh đất phía cực nam của tổ quốc: “một hạt phù sa lấn biển thêm rừng, đều giục người đi nhanh nhanh đôi bàn chân, nhanh nhanh những nghĩ suy và ước vọng. Về đất biển Cà Mau, thấy đất trời thêm rộng lớn…”.

Những lời hát ấy đại diện cho những say sưa của thế kỷ trước. Còn giờ đây, khi Mekong đang hấp hối, chúng ta đang có nghĩ suy gì? Và còn ước vọng nào nữa?

Văn hóa, văn minh đến và đi theo các dòng sông

Theo tin báo Phnom Penh Post (31/10/2015) Thủ tướng Hun Sen một lần nữa đã phải ký sắc lệnh huỷ bỏ ngày Lễ Hội Nước dự trù tổ chức vào ngày 24 tới 26 tháng 11 “do mực nước sông quá thấp và tình trạng hạn hán mà Vương quốc Campuchia đang phải đối đầu, đồng thời đòi hỏi mọi người phải tập trung nỗ lực và vận dụng mọi phương tiện có thể có được nhằm giải quyết vấn đề thiếu nước trên các ruộng lúa trong mùa khô.” Đây là lần thứ tư trong vòng 5 năm chính phủ Hun Sen đã phải huỷ bỏ Lễ Hội Nước truyền thống hàng năm, thường tụ hội hàng mấy trăm ngàn người đổ về thủ đô Phnom Penh để tham dự lễ hội đua thuyền trên sông Tonle Sap.

Người Việt xưa đã có câu: “Phú quý sinh lễ nghĩa”. Khi sinh kế do dòng sông mang lại đã mất đi, vùng châu thổ sông Mekong không còn là mảnh đất trù phú nữa thì những hoạt động văn hóa như Lễ Hội Nước ở đất nước Chùa Tháp liệu có thể tồn tại? Cũng tương tự, khi miền Tây Nam Bộ của Việt Nam không còn mùa nước nổi ngọt lành và đang phải gồng mình chống chịu với hạn mặn, với lở đất, với sản lượng lúa và hoa màu, trái cây, sản lượng thủy sản suy giảm, kéo theo sự thay đổi của một loạt các ngành nghề phụ trợ khác; khi đất liền đang bị nuốt dần bởi nước biển xâm thực và vô số người dân bỏ đi các vùng miền khác để tìm kế sinh nhai… thì hoạt động văn hóa, du lịch, giao thông ở đây liệu có còn phong phú, nhộn nhịp như xưa?

Đất chết, cây chết, cá hết, con người phiêu dạt ly tán, nước biển tràn về, cũng mặn như nước mắt của vùng châu thổ.

Thủy điện – sát thủ giấu mặt

Vì sao mà Mekong cạn nước? 

“Những con đập là mối đe dọa lớn nhất đối với Mekong và sự trong sạch môi trường. Xây một con đập chẳng khác nào bóp kẹp một động mạch trên cơ thể. Nếu máu không lưu thông, hẳn nhiên cơ thể bị tổn thương”. ông Witoon Permpongsachareon – chủ tịch nhóm bảo vệ môi trường TERRA (Towards Ecological Recovery & Regional Alliance; trụ sở Bangkok) đã phát biểu như thế.

Đã có quá nhiều công trình nghiên cứu, các báo cáo của các tổ chức môi trường và các bài báo chỉ ra nguyên nhân của nó là do các đập chắn của hệ thống thủy điện trên lưu vực sông Mekong suốt từ thượng nguồn của nó trên lãnh thổ do Trung Quốc kiểm soát, xuống đến vùng hạ lưu thuộc Lào, Thái Lan, Campuchia.

Hiện nay số lượng các đập thủy điện trên lưu vực chính sông Mekong là hàng chục con đập, chưa kể đến con số 94 đập thủy điện trên các dòng nhánh của Mekong (Wikipedia). Riêng Lào tính đến đầu năm 2020 đã đưa vào vận hành 50 con đập và dự trù xây dựng ít nhất 50 con đập nữa trên dòng sông này.

Tại sao các đập thủy điện lại được xây dựng ồ ạt trên lưu vực sông Mekong?

Theo Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược thủy điện dòng chính Mê Kông (ICEM 2010), được xem là báo cáo đánh giá toàn diện nhất cho đến nay về các tác động của các dự án thủy điện dòng chính, thì có mấy nguyên nhân sau đây:

  • Nhu cầu năng lượng gia tăng
  • Tiềm năng lớn về thủy điện
 của dòng Mekong
  • Thủy điện được kỳ vọng là đòn bẩy kinh tế
  • Thủy điện được coi là nguồn năng lượng bền vững
  • Sự cổ vũ gián tiếp của các thể chế tài chính lớn trên thế giới và trong khu vực

Tuy nhiên, sau một giai đoạn dài ồ ạt đầu tư xây dựng các công trình thủy điện, người ta mới phát hiện ra những sự thật hoàn toàn trái ngược với những suy diễn lạc quan ban đầu. Như là:

  • Thủy điện chưa hẳn là nguồn năng lượng sạch: Ngày càng có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy các hồ chứa thủy điện, đặc biệt là ở khu vực nhiệt đới, là nguồn phát thải khí nhà kính đáng kể. Các nhà khoa học của Viện nghiên cứu Không gian Quốc gia Brazil đã ước tính rằng các đập lớn của thế giới phát thải 104 triệu m3 tấn khí methan mỗi năm từ mặt hồ chứa, tuốcbin, đập tràn và hạ nguồn đập. Từ đó nghiên cứu đã kết luận rằng, đập thủy điện chịu trách nhiệm khoảng 4% tác động do con người gây ra đối với biến đổi khí hậu (theo Lima et al. n.d.). Theo bản báo cáo của Uỷ ban Đập nước Thế giới (WCD), ở nơi nào đập nước lớn so với công suất phát điện (ít hơn 100 watt trên mỗi km2 diện tích bề mặt) và không có việc phá rừng trong vùng được tiến hành trước khi thi công đập nước, khí gas gây hiệu ứng nhà kính phát ra từ đập có thể cao hơn những nhà máy nhiệt điện thông thường.
  • Thủy điện không phải nguồn năng lượng rẻ: Sản xuất thủy điện chỉ rẻ khi đập đã được vận hành vì chi phí xây đập rất cao và thời gian cần thiết để hoàn thành công trình rất dài. Theo tính toán của Ủy ban Đập Thế giới, trung bình chi phí xây dựng mỗi con đập vượt 56% so với dự toán. Đặc biệt, năng suất thiết kế của đập thường cao hơn năng lượng thực tế mà đập sản xuất được. Vì vậy, khi biến đổi khí hậu đang ngày càng khiến khô hạn tăng về tần suất và mức độ thì thủy điện không thể là nguồn năng lượng giá rẻ (International Rivers 2008).
  • Đập thủy điện không thể kiểm soát lũ hiệu quả: Đập có thể cắt lũ theo quy luật nhưng thường thất bại trước những cơn lũ lớn, bất thường. Khi có lũ lớn, tác động thường lớn hơn trường hợp không có đập, nhất là khi các nhà vận hành hồ chứa cho xả lũ bất ngờ khi có lũ vượt quá khả năng chứa của đập hoặc xảy ra sự cố vỡ đập. Đặc biệt, biến đổi khí hậu đang làm tăng tính khắc nghiệt của lũ cùng với các rủi ro lớn hơn cho an toàn đập (International Rivers 2008).

Không có thủy điện thì sao?

Thực tế, theo báo cáo đánh giá môi trường chiến lược thủy điện dòng chính Mekong (ICEM 2010) thì:

“Nếu không có thủy điện dòng chính, Lào vẫn có đủ tiềm năng thủy điện trên các phụ lưu sông Mê Kông trong trung hạn, để tiếp tục tạo ra các nguồn thu dồi dào từ xuất khẩu điện và khuyến khích đầu tư vào nền kinh tế năng động của Lào.” (ICEM 2010).

“Thủy điện dòng chính ít có ý nghĩa quan trọng đối với các ngành năng lượng của Thái Lan và Việt Nam. Những dự án này chỉ có tác động nhỏ đến giá điện (thấp hơn 1,5%) và có ảnh hưởng hạn chế đến các chiến lược cung cấp năng lượng so với quy mô của các ngành năng lượng ở hai nước này. (…) 96% nhu cầu điện dự báo đến năm 2025 là từ Thái Lan và Việt Nam và hai nước này có khả năng cần mua đến gần 90% lượng điện sản xuất ra từ các dự án trên dòng chính. Nếu Thái Lan và Việt Nam quyết định không mua lượng điện sản xuất từ dòng chính, thì các dự án này – tất cả đều thiêt kế để xuất khẩu – sẽ có khả năng không thể triển khai” (ICEM 2010).

Cũng như theo ý kiến của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam thì:

“Việt Nam nằm ở hạ nguồn nên 60% lưu lượng nước phụ thuộc vào thượng nguồn nằm ngoài biên giới Việt Nam. Những năm gần đây, các nước vùng thượng nguồn xây dựng các công trình khai thác, phát triển thủy năng với quy mô lớn khiến nguồn nước chảy vào Việt Nam ngày càng cạn kiệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các khu vực phụ thuộc mạnh vào nguồn nước trên. Cụ thể, sông Cửu Long phụ thuộc 95% nguồn nước quốc tế, trong khi đây là vùng sử dụng nhiều nước nhất, tỷ lệ lưu trữ nhỏ nhất, mật độ dân số cao nhất và có số hộ nghèo cao thứ hai trong cả nước” (Bộ Tài nguyên và Môi trường 2010).

Đối với Việt Nam và Thái Lan, thủy điện dòng chính ở phần hạ lưu Mekong không có tầm quan trọng lớn đối với nhu cầu năng lượng quốc gia. Lợi ích ròng đến từ các đập dòng chính là nhỏ, ước tính khoảng 655 triệu đô la Mỹ đối với Thái Lan và Việt Nam, nhỏ hơn 1% tổng giá trị hàng năm của ngành điện của các quốc gia này tính cho năm 2025. Vì vậy, thủy điện dòng chính sẽ có tác động rất nhỏ lên giá điện của các hệ thống điện này (giảm chi phí cho người tiêu dùng khoảng 1,5% theo ICEM2010). Nói cách khác, với nhu cầu điện lớn của hai quốc gia trên thì thủy điện trên dòng chính sông Mekong không phải là một phương án có nhiều ý nghĩa.

Hơn nữa, dự báo điện của các quốc gia Mekong chủ yếu dựa vào dự báo phát triển kinh tế trong dài hạn, và do vậy có tính chắc chắn không cao và luôn cao hơn nhu cầu thực tế. Năm 2009, Thủ tướng Thái Lan đã chỉ đạo cho EGAT (Cơ quan điện lực Thái Lan) rà soát lại nhu cầu điện của quốc gia này sau cuộc khủng hoảng kinh tế vì dự báo nhu cầu điện trước cuộc khủng hoảng là khá thiếu chính xác. Đây không phải lần đầu mà EGAT bị chỉ trích vì đưa ra những ước lượng quá cao về nhu cầu điện dẫn đến việc đầu tư tràn lan không cần thiết đối với thủy điện và các nguồn khác. Và đây không phải là vấn đề của riêng EGAT, đó là vấn đề của dự báo.

Rõ ràng, nếu cân nhắc lợi hại thì thủy điện dòng chính sông Mekong không phải là lựa chọn khôn ngoan và duy nhất cho các nước vùng châu thổ sông Mekong.

Đập thủy điện trên dòng Mekong có từ khi nào? 

Cho đến cuối thế kỷ 20, Mekong vẫn là một trong số ít những con sông lớn chưa bị ngăn đập trên dòng chảy. Cuối những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu lên kế hoạch xây ít nhất 7 đập thủy điện trên thượng nguồn Mê Kông và đến nay đã hoàn thành và đưa vào vận hành 11 con đập. (Wikipedia)

Những đập thủy điện ấy kiểm soát dòng chảy của Mekong một cách hỗn loạn, ngăn cản hành trình của các loài cá và thủy sản cũng như sự bồi lắng phù sa ở phía hạ lưu sông Mekong, nhiều nhất là trên lãnh thổ Việt Nam và Campuchia, nhấn chìm hoặc gây hạn nhiều vùng đất nông nghiệp trù phú hai bên bờ sông… Bằng việc lần ngược lên theo bậc thang thủy điện này, chúng ta sẽ tìm đến đầu mối của tai họa đối với Mekong nằm trên những công trình thủy điện đồ sộ nhất, nơi giữ lại phần lớn lượng nước của Mekong ở 2200km thượng nguồn. Còn xa hơn thế, có thể ta sẽ khám phá ra đằng sau những công trình thủy điện ấy là những tư tưởng, văn hóa đáng sợ nào.

Đó sẽ là nội dung trong kỳ tới.

Nguyên Vũ

Tài liệu tham khảo:

1. Vang bóng một thời mùa nước nổi miền Tây – bác sĩ Ngô Thế Vinh
2. Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười – Nguyễn Hiến Le
3. Báo An Giang
4. Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược thủy điện dòng chính Mê Kông (ICEM 2010)
5. Thủy điện Mekong ai được ai mất http://www.cepf.net/SiteCollectionDocuments/indo_burma/FinalReport_PanNature_EcosystemServicesVietnam_Annex5.pdf
6. International River2008
7. Thủy điện lưu vực sông Mekong
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A7y_%C4%91i%E1%BB%87n_%E1%BB%9F_l%C6%B0u_v%E1%BB%B1c_s%C3%B4ng_M%C3%AA_K%C3%B4ng#cite_note-mekv2-16