Chúng ta vẫn thường ca ngợi người giữ chữ tín là “lời hứa nghìn vàng”. Thực ra câu thành ngữ về việc thủ tín này có nguồn gốc từ một câu chuyện lịch sử rất cảm động lòng người đã xảy ra cách nay khoảng hơn 2000 năm…
Thời Hán Sở tranh hùng, dưới trướng Hạng Vũ có tướng quân Quý Bố rất trọng chữ tín và giữ lời hứa. Danh tiếng tín nghĩa của Quý Bố đã nổi tiếng đương thời, Thái sử công viết trong Sử ký – Quý Bố Loan Bố liệt truyện rằng, nước Sở có câu ngạn ngữ: “Được trăm cân vàng không bằng một lời hứa của Quý Bố“. Đó chính là ca ngợi ông. Tào Khâu Sinh, du sĩ, biện sĩ nước Sở đi du thuyết khắp nơi cũng đã truyền rộng đức hạnh trọng tín giữ lời hứa của Quý Bố. Câu ngạn ngữ nước Sở ca ngợi Quý Bố chính là nguồn gốc của câu thành ngữ “lời hứa ngàn vàng” sau này.
Quý Bố xuất thân từ nhân sĩ nghĩa hiệp nước Sở, ông coi trọng chữ tín, vui trợ giúp người, danh tiếng nổi khắp nước Sở và nước Lương. Đời người có lúc thăng lúc trầm. Khi Quý Bố gặp nạn, có người bước ra tương trợ, có người bảo vệ. Những người này đều vô cùng trân quý người giữ chữ tín, nguyện hiến dâng sinh mệnh để bảo vệ người trung tín, ngàn vàng cũng không khiến họ động lòng.
Những năm cuối triều Tần, trong cuộc chiến Hán Sở, Quý Bố dưới trướng Hạng Vũ cùng tướng sĩ nhiều lần vây khốn Hán Vương Lưu Bang. Sau này, Hạng Vũ chiến bại ở bên sông Ô Giang, đã tự kết thúc cuộc đời. Lưu Bang lập nên triều Hán, treo thưởng ngàn cân vàng cho ai bắt được Quý Bố, đồng thời chiếu cáo nói rõ nếu có người nào dám che dấu Quý Bố thì đều bị xử tội chết cả 3 họ.
Trong hoàn cảnh nguy hiểm như vậy nhưng đại trượng phu Quý Bố coi trọng chữ tín vẫn được rất nhiều nhân sĩ nghĩa hiệp không sợ cái chết đứng ra bảo vệ ông. Người đầu tiên là nhân sĩ Bộc Dương Chu Thị, trọng nghĩa khí hơn sinh mệnh, chuyện kể lại rằng:
Quý Bố chạy trốn khắp chân trời góc biển, đầu tiên ông ẩn náu ở nhà Chu thị. Một hôm Chu Thị nói với vị tướng quân Quý Bố mà ông tôn kính rằng: “Triều Hán đang cấp bách dùng tiền mua mạng của tướng quân, sắp truy tìm đến nhà hạ thần rồi. Tướng quân nếu có thể nghe theo lời hạ thần thì hạ thần có thể hiến mưu kế. Nếu tướng quân không muốn nghe thì hạ thần nguyện ý tự đâm cổ tự sát trước“.
Quý Bố đồng ý kế sách của Chu Thị. Thế là Chu thị cải trang Quý Bố thành tội phạm, cạo đầu ông, đeo một cùm sắt lên cổ ông, và thay bộ y phục vải thô, sau đó đưa lên xe đưa linh cữu. Chiếc xe đó đưa Quý Bố cùng mấy chục người trong gia đình đến đất Lỗ, đến nhà hiệp khách nổi tiếng Chu gia để bán làm nô gia.
Chu gia là nhân sĩ nghĩa hiệp thứ hai trợ giúp Quý Bố, cũng là nhân vật then chốt khiến Quý Bố từ cõi chết trở về. Trong lòng ông biết rõ, người phục dịch vẻ ngoài như kẻ phạm tội kia kỳ thực chính là tướng quân Quý Bố của Hạng Vũ danh tiếng lẫy lừng. Thế là Chu Gia liền mua ngay rồi để Quý Bố cày ruộng. Ông căn dặn con trai rằng: “Việc ngoài ruộng đồng đều nghe theo người nô bộc này, con phải ăn cơm cùng với ông ấy“.
Sau đó ông lên xe ngựa nhẹ đi Lạc Dương, mở con đường từ cõi chết trở về cho Quý Bố.
Chu Gia đến Lạc Dương, chấp nhận mối hiểm nguy sinh tử tìm đến Hạ Hầu Anh – Nhữ Âm Hầu Đằng Công – nhân sĩ siêu cấp là người thân cận với Hán Cao Tổ. Hạ Hầu Anh là đồng hương và là bạn từ thuở niên thiếu với Lưu Bang, đồng thời cũng là khai quốc công thần của triều Hán.
Chu Gia trước tiên hỏi: “Quý Bố đã phạm đại tội gì? Tại sao Hoàng thượng cấp thiết muốn bắt ông ta?”
Đằng Công trả lời rằng: “Bởi vì ông ta đã mấy lần giúp Hạng Vũ vây khốn Hoàng thượng, Hoàng thượng oán hận ông ta, do đó nhất định phải bắt bằng được“.
Chu Gia ướm thử Đằng Công: “Ngài thấy Quý Bố là người như thế nào?”
“Là người hiền” – Đằng Công đáp.
Chu Gia trong lòng quyết định thông qua người này mà cứu Quý Bố, thế là ông bắt đầu dùng lý lẽ và lợi ích để thuyết phục Đằng Công, họ Chu nói:
“Kẻ bề tôi ai nấy đều tận tâm tận lực vì chủ của mình. Quý Bố dốc sức vì Hạng Vũ, ông ấy tận tâm, đó là là trách nhiệm. Lẽ nào bề tôi của Hạng Vũ đều phải giết sạch sao? Hơn nữa, Hoàng thượng vừa mới có được thiên hạ, chỉ vì oán hận cá nhân mà treo thưởng ngàn vàng bắt một người như thế này, đó chẳng phải là cho thiên hạ thấy rõ Hoàng thượng không thể khoan dung với những người bất đồng đó sao. Quý Bố là người hiền tài, bị triều Hán bức bách, ông ta có thể đi lên phía Bắc theo người Hồ, hoặc xuống phía Nam vào đất Việt. Đó chẳng phải là để tráng sĩ đi giúp địch quốc đó sao? Đây chính là đại kỵ của quốc gia đó. Xưa Ngũ Tử Tư dùng roi đánh mộ Sở Bình Vương, bài học tiền nhân còn đó. Ngài sao không khuyên can Hoàng đế?”
Nhữ Âm Hầu Đằng Công trong lòng biết rõ Chu Gia xin tha mạng cho Quý Bố, cũng biết rõ Quý Bố có lẽ đang ẩn náu ở chỗ Chu Gia, bèn nhận lời. Một hôm, Nhữ Âm Hầu Đằng Công thừa dịp bẩm tấu Lưu Bang, Lưu Bang bèn miễn tội cho Quý Bố, đồng thời triệu kiến và ban chức Lang Trung cho Quý Bố.
Con người thời xưa vốn con trọng lời hứa, ngàn vàng không đổi. “Một lời hứa coi thường vàng bạc”, trọng chữ tín đời đời trân quý; “Một lời hứa sẵn sàng bỏ mạng“, những chí sĩ khí tiết không sợ sinh tử, dốc sức vì tín nghĩa; “Một lời hứa hơn cả ngàn vàng“, nếu số người coi trọng chữ tín nhiều lên thì sẽ hình thành một xã hội an định, công lý và các chân giá trị khác cũng theo đó mà được đảm bảo. Người xưa coi trọng chữ tín hơn bạc vàng, dám đem sinh mệnh mình để bảo vệ người tín nghĩa. Nhìn nhiều người ngày nay, tranh quyền đoạt lợi, vong ân bội nghĩa, thất tín bội ước, lừa gạt dối trá lẫn nhau. Trên dưới tranh tranh đoạt đoạt, đấu đấu đá đá, chỉ vì chút lợi cỏn con mà hãm hại lẫn nhau không từ thủ đoạn… đúng là hại người hại mình, khiến xã hội trở thành “không còn chữ tín“, ai nấy đều bất an. Nhưng đâu đó chúng ta vẫn gặp được những người giữ chữ tín. Thiển nghĩ, trong hoàn cảnh xã hội như thế này mà lại có người vẫn còn có thể giữ được “lời nói ngàn vàng” thì đáng quý lắm thay!…