Trên Kiến thức ngày nay, số 236, ông có nói về hai tiếng “tì khưu”. Tôi có đọc cuốn Tầm-nguyên từ điển của Lê Ngọc Trụ (1993) thì sách này giải thích như sau: “Tỳ- kheo (ông gọi là “tì khưu”). Nam tu sĩ Phật giáo đã thọ giới đầy đủ (250 giới), chính thức đứng vào hàng tăng. Tỳ-kheo có 3 nghĩa: khất-sĩ, phá-ác và bố-ma. Xin cho biết giải thích như vậy có đúng không.

Trước nhất chúng tôi xin nói rằng tì khưu, tì khâutì kheo chỉ là những biến thể ngữ âm mà thôi. Tì kheo là một cách đọc hai chữ 琵丘 xuất phát từ việc kiêng kỵ tên cúng cơm của Đức Thánh Khổng vì tên của ngài chả là Khâu 丘, cũng đọc Khưu. Theo Phật-học từ-điển của Đoàn Trung Còn thì “tỳ-kheo”, cũng đọc “tỳ khưu”, có đến 4 “nghĩa” (chứ không phải là 3):

1. Tịnh khất thực (tức là cái mà Lê Ngọc Trụ gọi là “khất sĩ” – AC).

2. Tịnh phiền não (tức là cái mà Lê Ngọc Trụ gọi là “phá ác” – AC).

3. Tịnh trì giái.

4. Năng bố ma (có sức làm cho ma-tà sợ sệt).

Còn giữa Đoàn Trung Còn và Lê Ngọc Trụ, ai đúng ai sai hoặc ai đủ ai thiếu, thì chúng tôi xin nhường lời cho các bậc thức giả, đặc biệt là các nhà Phật học.