“Bậu” là tiếng dân dã, tiếng thân yêu của vùng Tây Nam bộ chúng tôi. Mỗi lần nghe ai nói, hoặc gặp trong thơ văn là lòng tôi cảm thấy bồi hồi. Tiếng “Bậu” nầy hình như bây giờ trong nước ít ai dùng, ít ai nhắc đến! Tại sao? Vì quê mùa? Tôi xin được tìm hiểu và giới thiệu đến các bạn vài bài thơ có liên quan đến chữ “Bậu” thân yêu nầy.
Định Nghĩa Chữ Bậu
1. Chữ Bậu trong sách vở
Trong các sách vở khi định nghĩa “Bậu”:
– Bậu: Chữ nôm, nghĩa: Em, mầy như chữ em bậu, bậu bạn (bạn hữu chung cùng; đi theo nhau, hôm sớm có nhau), qua bậu (Tao mầy (tiếng nói thân thiết) như lớn nói với nhỏ, chồng nói với vợ) (1)
– Bậu chỉ người nói chuyện với mình khác phái, có ý thương mến, thân mật (2)
– Bậu chữ được dùng như tiếng “em”, tiếng gọi vợ, hoặc nhân tình, hay em bạn” (3)
– Bậu (danh từ) (xưa): tiếng thân kêu vợ mình. (4)
(Theo Hai Trầu – Lương Thư Trung)
2. Chữ Bậu theo cảm xúc của thi nhân
Xin được trích đoạn ra đầy ý nghĩ, cảm xúc về chữ Bậu của thi sĩ Lê Văn Trung:
[… Không biết các nhà ngôn ngữ học giải nghĩa “bậu” như thế nào, tôi vẫn đinh ninh rằng: dù giải nghĩa thế nào đi nữa cũng không thể lột tả hết ý nghĩa tình cảm sâu đậm thiết tha mà đầy thương cảm của đại danh từ ngôi hai nầy.
“Bậu” là ai?
“Bậu” là một thoáng gặp gỡ trong đời nhưng làm ta ngây ngất và hình bóng “bậu” in mãi trong trái tim dào dạt thương yêu của ta.
“Bậu” là ai?
“Bậu” là sắc là hương bừng nở một thời trong đam mê say đắm của ta.
“Bậu” là ai?
“Bậu” là da là thịt là ái ân nồng thắm một đời vợ chồng…]
[“Bậu” Trong Thơ Trần Phù Thế – Lê Văn Trung]
“Bậu” có thể ở đâu đó trong bẽ bàng ngang trái, đã để lại trong lòng ta trong lòng “bậu” những vết cào xước đủ làm chảy máu trái tim.
“Bậu” đã có thể đã cùng ta đi trọn cõi trăm năm gian nan-cơ cực-hạnh phúc-khổ đau. Nhưng “bậu” cũng có thể ở đâu đó trong dang dở phân ly. Cho dù “bậu” là ai, một khi ta đã cất tiếng thiết tha gọi “bậu”, thì cái nghĩa trăm năm, cái tình vạn kiếp cứ mãi với ta lên thác xuống ghềnh. Không bao giờ ta quên! Không thể nào nguôi quên!
Giới Thiệu Sơ Lược Về Trần Phù Thế
Xin được giới thiệu đến các bạn anh Trần Phù Thế, người thi sĩ thường dùng chữ “Bậu” trong các bài thơ của mình; và lạ lùng thay, anh cũng là người cùng quê, học cùng trường với tôi. Chắc có lẽ chữ “bậu” này đã ngấm trong máu chúng tôi, người dân dã sống bên bờ sông Hậu, bên bờ kinh rạch Tây Nam bộ.
1. Tiểu sử Trần Phù Thế
Trần Phù Thế chào đời tại: […Làng Hậu Thạnh thuộc quận Long Phú, tỉnh Sóc Trăng nằm trên trục lộ từ Sóc Trăng đi Đại Ngãi. Đó là nơi tôi chào đời năm 1943. Ba tôi làm ruộng và Má tôi buôn hàng xén tại nhà. Khi lớn lên nghe Ba tôi kể lại năm 1945 người Miên từ xã Văn Cơ ”Nổi Dậy“. Họ uống rượu say, mắt đỏ ngầu, tay cầm Mã Tấu gặp người Việt là chém liền. Họ đi đến đâu là cướp của, đốt nhà. Ba tôi là nạn nhân của chúng. Nhưng may mắn chạy thoát được với vết thương trí mạng trên lưng vai trái. Sau đó Ba Má tôi dọn nhà ra chợ Đại Ngãi (nằm trên ngã ba sông Bassac và sông Đại Ngãi) cách Hậu Thạnh ba cây số. Thời đó, chợ Đại Ngãi rất trù phú, đông dân, trên bến dưới thuyền, là nơi tụ hội của giới thương hồ từ Long Phú, cù lao Dung lên, Cầu Quan, Trà Ôn qua và Kế Sách xuống. Khi gia đình sinh sống ở Đại Ngãi lúc đó tôi đã chín tuổi mới được đi học. Học xong Tiểu Học tôi vào Sóc Trăng trường trung học công lập Hoàng Diệu. Tôi đi lính K25/Thủ Đức năm 1967. Sau Tết Mậu Thân (1968) gia đình dọn về Cần Thơ.
Cấp bậc sau cùng: Đ/Úy Quân Báo. Sau năm 1975 học tập “cải tạo” 7 năm. Định cư tại Mỹ năm 1992 …]
[Trích lời Trần Phù Thế trả lời phỏng vấn của nhà văn Hai Trầu – Lương Thư Trung]
2. Hoạt động thơ văn
[…Đầu năm 1967 tôi định in tập thơ ”Thầm Yêu Trộm Nhớ”, nhưng lần lựa mãi. Tháng Tư thì có lệnh gọi nhập ngũ. Vào lính mệt quá nên quên luôn chuyện xuất bản tập thơ. Tám năm cầm súng tôi có viết lai rai cho các tạp chí ở Sàigòn. Sau năm 1975 gia đình đã tự thiêu bản thảo tập thơ cùng với hơn 200 sách báo của tủ sách gia đình. Khi tôi định cư tại Hoa Kỳ năm 1992 lo đi cày mờ mắt, đâu có gìờ rảnh mà văn với thơ. Mãi tới năm 1998, tôi mới viết lại và cộng tác với các tạp chí: Khởi Hành, Văn Hóa Việt Nam, Thư Quán Bản Thảo.
Sách thơ được ấn hành:
– Giỡn Bóng Chiêm Bao của Trần Phù Thế, Thư Ấn Quán ấn hành lần đầu, Hoa Kỳ, năm 2003; tái bản lần thứ nhứt năm 2008
– Gọi Khan Giọng Tình của Trần Phù Thế, Thư Ấn Quán ấn hành lần đầu, Hoa Kỳ, năm 2007; tái bản lần thứ nhứt năm 2009.
Anh đã từng phụ trách trang Thơ của Tuần báo Trẻ trên Dallas (Texas, Hoa Kỳ) do Nhật Hoàng chủ biên năm 2008…]
[Trích trả lời phỏng vấn của nhà văn Hai Trầu – Lương Thư Trung]
Đối Thoại Giữa Hai Trầu Và Trần Phù Thế Về Chữ Bậu
Xin trích đoạn thêm ra đây cuộc phỏng vấn và trả lời để các bạn hiểu thêm về chữ “Bậu”
[…
Hai Trầu: Theo tôi, trong cả bốn định nghĩa ấy đều không có trách móc, giận hờn, nhưng sao ca dao mỗi khi nhắc đến “bậu” lại dường như chữ “bậu” được dùng để gọi nhau khi lúc dỗi hờn, lúc cơm không lành canh không ngọt như trong các câu ca dao hoặc trong các bài hát dỗ em, tôi còn nhớ dưới đây:
Hoặc như trong bài thơ “Bậu Về”, “Tình Bậu Nhẹ Hều” của anh ít nhiều cũng là một lời trách khéo. Anh nghĩ sao? (Hai bài thơ này ghi lại ở dưới – NL)
Trần Phù Thế: Thưa anh Hai Trầu, phần lớn trong ca dao ”Bậu” được chiếu cố rất tận tình. Nào là: trách khéo, giận hờn, ghen tuông… Thậm chí dùng từ rất nặng như: phụ phàng, phản bội… Nhưng theo tôi ngôi thứ nhất sử dụng những từ ấy với ”Bậu” cũng chỉ vì yêu mà thôi. Tôi thấy điều đó rất bất công với “Bậu”. Như tôi là một tên si tình rất mê ”Bậu“. Nên khi “Bậu” của tôi qua đời, tôi đã khóc “Bậu” bằng một bài thơ đầy thống thiết. Đến nỗi hai nhà thơ Hạ Đình Thao và Lê Văn Trung phải thốt lên “không có bài thơ khóc vợ nào tự cổ chí kim mà hay hơn được” (*):
Bậu Đi
(Bậu Đi – Trần Phù Thế)
………
(*) Trích bài viết “Bậu Trong Thơ Trần Phù Thế.” (Lê Văn Trung – Trong tập san ”Thư Quán Bản Thảo” số 38 tháng – 2009
Hai Trầu: Vâng thưa anh, đúng thế! Dường như trong văn chương truyền khẩu có sự bất công với chữ “bậu” hơi nhiều. Trong thơ văn ngày nay, tôi nghĩ chưa ai dám dùng chữ “bậu” trong thơ như anh và có lẽ chỉ có một Trần Phù Thế rất “mê” chữ “bậu” này như anh vừa kể và với những bài thơ trách bậu, thương nhớ bậu quá tha thiết mà anh vừa dẫn đủ để nói lên cái nét đặc thù trong thơ Trần Phù Thế. Và tôi nghĩ chữ “bậu” ngày nay ít người còn dùng nhưng chắc hồn chữ nghĩa của nó sẽ rất vui với tấm lòng ưu ái của anh dành cho “bậu” vậy!…]
[Trích trả lời phỏng vấn của nhà văn Hai Trầu – Lương Thư Trung]
Vài Bài Thơ Về Bậu
A. Thơ Trần Phù Thế:
1. Bài thơ “Bậu Về” dưới đây, in trong thi phẩm “Gọi Khan Giọng Tình”
Bậu Về
(Trần Phù Thế)
@ Nhận xét của Hai Trầu:
“Bài thơ như một lời ca dao rặt miền Tây Nam Phần với sông nước Hậu Giang ngọt mát bốn mùa. Tài tình nhất là các chữ dùng rặt miền quê mà ngập tràn thương mến, hình ảnh rất đơn sơ mà làm nên nỗi nhớ cả một đời, nào là “chùm me“, “xoài tượng”, “nước mắm”, “chút đường”,”mình ên”, “kẹp tóc”… Phải chăng Trần Phù Thế làm thơ tình không giống ai và không có ai làm thơ tình giống Trần Phù Thế nổi ? Anh nghĩ sao?”
2. “Bậu về Đại Ngãi mình ên/ bỏ quên kẹp tóc bắt đền tội ta/ bậu quên là tại bậu mà/ tại sao bậu bắt đền ta một đời/tội này không chịu bậu ơi!”: Bậu là ai đã về Đại Ngãi và để quên kẹp tóc (thật hay giả bộ?) rồi bắt đền thi sĩ một đời?
Đây là Bậu theo lời “thành thật khai báo” của thi sĩ:
[… Chuyện nầy nói ra thiệt là mắc cỡ quá chừng. Lúc mà ta mười lăm đã lòng say bậu rồi…. Tôi khoái một cô bé tên Thương Huyền. Gia đình cô bé rất giàu có, nên cô ấy vô cùng kiêu ngạo. Hơn nữa ba cô bé mặt lạnh như tiền. Tôi đành nhốt hình bóng kiều diễm của bé vào trái tim. Tôi bắt đầu làm thơ….]
Gia đình Thương Huyền. vượt biên năm 1980 và định cư tại Đức. Thương Huyền cho biết đã đọc bài thơ “Tuổi Thơ Đại Ngãi” của Trần Phù Thế trong tuyển tập của Nhóm Văn Hóa Pháp Việt và bần thần suốt ngày. Những kỷ niệm thời thơ ấu như sống lại, hiển hiện trước mắt, bà bèn tìm địa chỉ và đã viết thư cho thi sĩ với lời cám ơn.
Đây là lời của Trần Phù Thế tâm sự với Hai Trầu trong cuộc phỏng vấn:
“Anh Hai biết khôn: Đọc thư xong, niềm cảm khái dâng trào, tôi ngồi vào bàn viết và viết trong bốn mươi lăm phút là hoàn tất bài thơ “Bậu Về”. Tối hôm đó, tôi đọc lại bài thơ vừa sáng tác “Bậu về” cảm thấy thiêu thiếu cái gì đó. Thế là tôi viết luôn bài thơ “Tình Bậu Nhẹ Hều,” ý trách nàng một chút, để xoa dịu lòng nhát gan của mình”
Tình Bậu Nhẹ Hều
(Trần Phù Thế)
B. Thơ Nguyên Lạc
— Trước khi giới thiệu vài bài thơ về “Bậu” của tôi, tôi xin có vài hàng về sự quen biết giữa tôi và Trần Phù Thế. Anh Trần Phù Thế chào đời ở làng Hậu Thạnh như đã nói trên, tôi sanh tại làng Đại Ngãi, học cùng trường Tiểu Học Đại Ngãi, rồi Trung Học Hoàng Diệu, Sóc Trăng với anh, nhưng sau 3 lớp. Anh nhập ngũ 1967 còn tôi vẫn tiếp tục lên Đại Học Cần Thơ và mãi đến 1973 mới nhập ngũ, gia nhập Quân Y VNCH, vượt biển đển BiDong, Malaysia 1987 rồi định cư tại Mỹ 1988, trước anh 4 năm.
(Ra Đi, Về Tìm – Nguyên Lạc)
Đại Ngãi còn được gọi là Vàm Tấn – Vàm (Danh từ): cửa sông, nơi rạch chảy ra sông hoặc sông con chảy ra sông lớn.
Do cùng sống bên dòng sông Hậu và các kinh rạch nên chữ “Bậu” cũng thấm vào máu tôi, như anh.
— Mời các bạn đọc vài bài thơ về “Bậu” của tôi:
Tội Gì Nhớ Thương
Môi Tím Mồng Tơi
(Nguyên Lạc)
……….
@. Chú thích
a. Còng gió (Ocypode ceratophthalma): Gọi còng gió vì đây là loại còng chạy rất nhanh, tưởng có thể bằng cả tốc độ của gió. Mặc dù có bộ dạng nhỏ thó, nhưng đôi càng của còng gió đực (một lớn, một nhỏ) lại là vũ khí hết sức đáng sợ, càng nó rất khỏe, mép càng sắc như dao, kẹp có thể đứt thịt. Ở quê tôi, Đại Ngãi, Sóc Trăng, Hậu Giang nơi các sông rạch, còng gió lớn cỡ ngón tay màu xanh blue rất đẹp
b. Cá thòi lòi (Periophthalmodon schlosseri), là một loài cá thuộc họ Cá bống trắng (Gobiidae), Cá thòi lòi phổ biến nhất dọc các bãi lầy ở cửa sông, không ngập quá 2 m nước Loài cá này sinh sống trong hang hốc vét ở bãi lầy. Khi thủy triều xuống thì cá chui ra, nhất là những ngày nắng ráo.
Cá có khả năng di chuyển trên mặt bùn khá nhanh, gần như chạy nhảy. Với hệ thống hô hấp bằng phổi cá thòi lòi có thể thở trên cạn. Khi dưới nước thì dùng mang.
Thương Bậu
Tình Quê
Đứng Ngồi Hỏng Yên
Nguyên Lạc
(Bài kế: Tiếp Tục Các Bài Thơ Về Bậu )
…………………..
Ghi chú của Hai Trầu:
[1] Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, nhà xuất bản Rey, Curiol & Cie, Sài gòn, 1895; nhà Văn Hữu, Sài gòn, tái bản năm 1974.
[2] Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ, nhà xuất bản Khai Trí, Sài gòn, năm 1970, quyển thượng.
[3] Từ Điển Từ Ngữ Nam Bộ của Huỳnh Công Tín, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Việt Nam, năm 2007.
[4] Việt Nam Tân Từ Điển của Thanh Nghị, nhà xuất bản Thời Thế, Sài gòn, năm 1951.