Mỗi lần nghe tiếng rao “Bánh cam đây mấy anh mấy chị ơi” trong một con hẻm ba xuyệc ở quận tư tự nhiên thấy lòng nao nao. Tiếng rao sao mà uỷ khúc, cam chịu. Tiếng rao đầy sắc thái của một thứ bánh hầu như đã bặt tăm trong thời tuổi thơ của tuổi thơ bây giờ.
Bánh cam với vỏ ngoài làm bằng bột nếp trộn bột gạo chiên ngập dầu vừa dẻo vừa dai vừa dòn. Có nơi, làm theo kinh nghiệm dân gian, còn trộn thêm khoai lang luộc chín giã mịn để giữ cho bánh dòn lâu. Tại sao khoai lang tạo độ dòn lâu? Chịu.
Bánh cam phiên bản quận tư
Còn loại “Bánh cam đây mấy anh mấy chị ơi” mà tôi thường gặp trong con hẻm ba xuyệc nhà tôi vỏ còn được phết lên một lớp đường caramel đã thắng vàng. Sau đó mới lăn vào mè. Hương của mè bao giờ cũng quyến rũ. Nó lặn sâu trong ký ức tuổi thơ tôi qua những miếng ăn. Qua câu chuyện anh chàng tiều phu Alibaba tình cờ ăn cắp được password mở cửa kho tàng của bọn cướp: “Mè ơi! Hãy mở ra”. Và mỗi lần tái ngộ hương mè ấy như thứ bánh ngàn lớp làm bằng bột nhào xếp lớp. Nó ùa về mà ta không tả được gì ngoài hai chữ quyến rũ.
Do bánh được chiên phồng lên nên nhưn ở trong hoàn toàn độc lập thành một khối. Tuy độc lập nhưng không có tự do vì bị tù giam trong vỏ. Bởi vậy mà người ta còn gọi là bánh cam lục cục. Thứ nhưn đậu xanh giã mịn ấy còn được trộn đường và cơm dừa nạo. Vừa béo vừa bùi vừa ngọt một thời thiếu thốn chất béo và chất ngọt làm bọn trẻ đâm ghiền. Rồi ghiền lên con mắt trông ngóng má đi chợ về.
Nhưng bánh cam thuở ấy còn ngon hơn nữa là phải được gói bằng lá chuối. Cũng có khi ăn cái bánh cam không có tiếng rao nao lòng “Bánh cam đây mấy anh mấy chị ơi” dường như thiêu thiếu một cái gì đó làm món bánh kém ngon. Cái tiếng rao bằng một sắc giọng hơi mỏi mệt, hơi trông ngóng, nó đặc thù làm sao. Có khi ăn cái bánh cam mà không phải tiếng rao ấy, ta như bất an. Cũng như nghe một bài nhạc não tình mà không phải bằng chất giọng Thanh Thuý, coi như hỏng. Mỗi lần tiếng rao ấy đi ngang nhà, tôi không thể nào thoát được cái cảm giác vừa kể. Bất an vì không biết thân phận của những tiếng rao ấy ngày hôm ấy sẽ như thế nào. Đi về đâu? Rồi nghĩ, ngày nào cũng nghe tiếng rao, chắc là vẫn tồn tại.
Người ta vẫn bảo vì nó giống trái cam, vì nó màu vàng cam nên mới có tên gọi là cam. Bây giờ thì có lý hơn khi nói tên cam vì nó đã rơi vào thời cam chịu để không mất đi.
Bánh thuẫn của khí quyển tết
Nhiều thứ bánh đã mất dần. Đã nhạt nhoà đi khỏi đời sống thị dân mà sao nghe chẳng cam lòng. Như những chiếc bánh thuẫn. Chúng luôn luôn ép ta vào trong cái khí quyển mùa xuân. Lúc ấy, lúc của những ngày cuối năm, má đi chợ tết về. Trong giỏ không thể nào thiếu gói bột mì. Hột gà đã có sẵn vì nhà nuôi tới mấy con gà mái đẻ. Rồi má bày tất cả ra sàn bếp. Nào thau và cây lò xo đánh tròng đỏ hột gà. Nào lò than của thời đốt chủ yếu bằng bếp dầu hôi. Nào khuôn đồng mỗi năm chỉ xài có giỗ chạp. Má không cho mấy đứa con đánh, vì sợ đánh không đạt tốc độ, trứng bị lì, bánh lúc đổ sẽ không đủ độ nổi.
Có nhà còn để dành cái nang mực nhét trên mái tranh. Có dịp làm bánh thuẫn, mới nghiền nang mực cho vào bột, để làm cho bánh có một độ cứng dòn nhất định và kéo dài suốt thời gian chờ được đưa ra ăn hoặc đãi khách. Những chiếc bánh thuẫn mà bọn trẻ cứ nôn nao vào vào ra ra nhà bếp, trông ngóng được phát cho mỗi đứa một cái của lứa bánh đầu. Lứa ấy thường không ngon, vì khuôn chưa ăn lửa. Nhưng lại ngon tuyệt độ với bọn nhỏ. Lại vun trồng bầu tuổi thơ đầy ắp kỷ niệm. Để có chút gì để nhớ mai hậu khi lớn lên.
Những thứ quà bánh nhạt nhoà này đến nay vẫn còn đầy đủ trong cái chợ mà quầy hàng rải dọc theo con đường Đoàn Văn Bơ, bắt đầu từ ngã tư Tôn Đản kéo dài về hướng đường Xóm Chiếu. Khoảng chừng non cây số. Thật là một cái chợ kỳ dị. Nó tồn tại hằng bao nhiêu năm và hàng hoá bao giờ cũng rẻ hơn bên quận nhất cách một cây cầu Ông Lãnh.
Cá thát lát giã thành chả sẵn bên quận nhất ba lăm ngàn, ở đây chỉ chừng ba mốt ba hai ngàn một lạng. Ở đây có thể tìm thấy những thứ hàng quà mà ta khó lòng tìm thấy ở các chợ quận nhất. Chợ không vắn số như chợ quần áo sida ở đường Huỳnh Văn Bánh. Nói đến Bánh, vì bạn bè vẫn kháo nhau sao không đặt tên hai con đường gần nhau. Tôi vẫn gọi đó là một thứ “bảo tàng chợ xưa”.
Ở chợ này cũng còn thấy món chuối chiên. Lâu lắm rồi, tôi không còn ăn món quà này. Chuối chiên có lẽ ngon nhất khi ăn là phải thấy cả quá trình sinh thành của món ăn. Phải nhìn người bán trở miếng chuối trong cái chảo đầy dầu ăn. Rồi nghe mùi chuối khi nó đã chín. Sau đó, được cầm trong tay món chuối chiên nóng hổi gói bằng lá chuối. Và quan trọng nhất là nó phải được bán trước cổng trường tiểu học. Cái màu vàng của món chuối chiên lăn bột có lẽ không bao giờ phai lạt trong ký ức.
Nước cam một thời trẻ dại
Cam còn làm ta nhớ đến một thứ nước uống chơi mà xưa đều được gọi chung là nước cam. Lúc đó, mọi thứ nước ngọt có ga chẳng hiểu sao đều gọi là nước cam. Ban đầu là nước cam con cọp. Rồi đến nước cam Mỹ. Thứ ấy ngày xưa phải có dịp hội hè, lễ tết, mới được uống hai đứa một chai. Thứ nước ấy giờ đây đã trở thành một thứ độc địa cần tránh lạm dụng trong đời sống đô thị. Ngày xưa nó được làm ngọt bằng đường mía, đã đành.
Bây giờ nó được làm ngọt bằng xirô bắp đầy tai hại, một thứ chất tạo ngọt chỉ có vào gan rồi nằm lỳ ở đó. Nó được dùng vì giá rẻ hơn đường mía, nhưng nhà sản xuất vẫn gân cổ cãi: đường nào cũng là đường. Nhưng nó có cam phận như bánh cam đâu. Vì nó được son phấn bằng quảng cáo. Và như thế nó trở nên hấp dẫn hơn, nhất là với bọn trẻ của thời thức ăn nhanh phải uống với nước ngọt có ga, mới gọi là hợp thời…
Mọi thứ qua đi. Thơ ấu qua đi. Không ai sướng bằng trăng. Già đó rồi trẻ đó. Lại có lại tuổi thơ. Nhưng dẫu sao, ở một nơi mà mọi vật đong cứng lại như bêtông, còn con người thì béo núc ra bằng đường, bằng dầu chiên, bánh cam muốn sống lại như trăng cần phải điều chỉnh độ ngọt. Để lưu giữ cái hồn của món quà quê thời đô thị hoá, béo phì hoá.