Từ trước đến nay đã có rất nhiều bài viết thảo luận về địa danh Thọ Xương. Cũng như nguồn gốc của hai câu ca dao liên quan đến địa danh này. Bởi lẽ nó đã xuất hiện trong cả hai câu, một ở Huế và một ở Hà Nội. Về xuất xứ của câu ca dao “Gió Đưa Cành Trúc La Đà” như thế nào?
1. Xuất xứ bài thơ Gió đưa cành trúc la đà
Câu ca dao ở Huế có nội dung:
Còn câu ở Hà Nội là:
Tựu trung hai khuynh hướng tranh luận, đó là:
1- Câu ca có nguồn gốc từ Hà Nội, bởi địa danh Thọ Xương từ rất lâu đã là một huyện, và hiện vẫn tồn tại. Hơn nữa lại phù hợp với di tích đền Trấn Vũ hiện nay. Còn Huế thì không có địa danh Thọ Xương
2- Khuynh hướng hai dựa vào một số tài liệu lịch sử như Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang … Đã chứng minh rằng: Từ xa xưa, Thọ Xương ở Huế là tên vùng đất đối diện chùa Thiên Mụ. Nguyên tên của nó là Thọ Khương (hay Thọ Khang); Đến đời vua Gia Long (1802-1820). Do kỵ húy đế hiệu thân sinh của nhà vua (Hiếu Khương Hoàng Đế) nên ông đã đổi thành Thọ Xương. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824), nhà vua đã đổi thànhLong Thọ Cương và hiện nay. Người địa phương chỉ gọi là Long Thọ. Tại đây hiện có nhà máy chế biến xi măng Long Thọ đã có từ lâu.
2. Sự khác biệt giữa câu ca dao ở Huế và bài thơ Hà Nội tức cảnh của Dương Khuê”
Trong cuốn Sổ tay địa danh Việt Nam, tác giả Đinh Xuân Vịnh ghi như sau:
“Thọ Xương: Làng, trước gọi là Thọ Khang, Gia Long đổi là Thọ Xương. Năm 1824 đổi là Long Thọ. Thuộc huyện Phú Vang, Phủ Thừa Thiên trên sông Hương. Nay thuộc thành phố Huế” (Sổ tay địa danh…, sđd, trang 515).
Trong các kho lúa ở xứ Thuận Hóa (Huế) dưới thời các chúa Nguyễn, sách Việt Sử xứ Đàng Trong ghi rõ: “Ở Thuận Hóa ban đầu có 7 kho là: Kho Thọ Khương (huyện Phú Vang). Kho Nguyệt Biều (huyện Hương Trà), kho Thạch Hãn (huyện Hải Lăng), kho Lai Cách (huyện Minh Linh), kho An Trạch (huyện Lệ Thủy), kho Trung Trinh và kho Trường Dục (huyện Khương Lộc)”. (Việt sử xứ Đàng Trong, sđd, tr 213).
Ngoài ra, những nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này đã dựa vào gia phả họ Dương để xác định rằng: Câu ca được lưu truyền ở Hà Nội chính là một trong những bài thơ của tác giả Dương Khuê (1839-1902) mà hai câu đầu nguyên văn là:
“Phất phơ ngọn trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương”.
Bài thơ có tựa là Hà Nội tức cảnh và được tác giả sáng tác sau khi từ giã quan trường ở Huế để ra lại quê nhà. Tiến sĩ Dương Thiệu Tống (1925-2008); một hậu duệ của cụ Dương Lâm đã chép bài thơ này và in trong cuốn Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm của mình (Nxb Văn Học,1995), đồng thời đã có nhân xét là:
“Có người đã sửa đổi câu đầu bài thơ này là “Gió đưa cành trúc la đà”, nhưng có lẽ là sai. Vì làm mất đi ý nghĩa ngầm của toàn câu, mà chỉ còn ý nghĩa tả cảnh (nổi) mà thôi.”
Khách quan mà nói, ta thấy về ngôn từ, cũng như về ý nghĩa thì hai bài hoàn toàn khác nhau. Câu ca dao ở Huế không có tác giả, nó diễn tả phong cảnh hữu tình, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự vào một buổi sớm tinh mơ khi gà vừa gáy sáng chuyển canh; Trong khi bài thơ Hà Nội tức cảnh do Dương Khuê sáng tác để gửi gắm nỗi lòng của mình đối với hoàn cảnh đất nước. Trong bài này, có lẽ tác giả đã biến đổi địa danh Thiên Mụ (ở Huế) của câu ca dao thành ra địa danh Trấn Vũ cho hợp với phong cảnh Hà Nội.
Bài thơ này được Dương Khuê được sáng tác vào khoảng thập niên 1870, sau nhiều năm sống tại Huế. Do đó có thể nghĩ rằng, câu ca dao ở Huế đã ảnh hưởng đến tứ thơ của ông. Vì thế, khi trở ra miền Bắc, gặp lúc thời thế nhiễu nhương. Ông sáng tác bài này để biểu lộ nỗi lòng của mình. Hai câu đầu của bài thơ là mượn câu ca dao ở Huế. Nhưng thay đổi địa danh cho phù hợp với phong cảnh của Hà Nội: chùa Thiên Mụ đổi thành chùa Trấn Vũ. Vả lại, do sự trùng hợp: Hà Nội cũng có địa danh Thọ Xương nên đã không cần phải đổi địa danh này?
Gần đây, trong tập Di sản Hán Nôm Huế (Huế-2003). Có công bố một văn bản bằng chữ Hán thuộc loại thư tịch cổ ở làng Xuân Hòa. (Nay là xã Hương Long, thành phố Huế). Đây là một văn bản tranh tụng về đất đai, lạc khoản đề năm Gia Long thứ 10 (1811) và có đủ đặc điểm về tự dạng chữ viết thời bấy giờ. Có thể coi đây là tư liệu sớm nhất liên quan đến địa danh Thọ Xương vào đầu thế kỷ XIX. Xin được trích lại phần dịch nghĩa do nhóm tác giả Lê Văn Thuyên, Lê Nguyễn Lưu và Huỳnh Đình Kết thực hiện:
Văn bản thời Gia Long và địa danh “Thọ Xương sơn” (được vòng lại)
“Chúng tôi là xã trưởng Hạ- Hoàng Ngọc Hạ. Hương mục lão Dụng- Hoàng Văn Dụng, lão Tiệp- Hồ Hữu Tiệp ở xã Nguyệt Biều phụ giới tổng Kim Long, huyện Hương Trà, xin chứng nhận như sau:
Nguyên năm trước, xã Dương Xuân kiện giành với xã chúng tôi về ranh giới thuộc khu vực núi Thọ Xương cũ. Phía trước nhà của cha Cứ ở vườn xứ Đỉnh Động núi ấy thuộc xã chúng tôi có một ngôi mộ tro cổ, hiện tấm bia đá khắc mấy chữ “Chôn tại núi Thọ Xương”. Từng được người do Bộ phái đến khám xét thấy là thật. Ghi chép làm bằng, so với giấy tờ đơn trương, sổ sách của xã chúng tôi cùng các lời khai báo đều phù hợp, đã nêu thành án chờ xử lý. Nay vâng lệnh truyền các xã, thôn, phường trong huyện phải cùng nhau thừa nhận mốc giới, làm mới sổ ruộng đất, xã Dương Xuân bèn hẹn với xã chúng tôi làm việc vào ngày mồng 8 tháng Trọng xuân (2-3-1811). Đúng ngày ấy, tập trung tại chỗ, xem thấy tấm bia vẫn còn đó.
Lần kế tiếp, ngày 11 cùng tháng, hai xã lại đến. Đối mặt nhau nhận ranh giới. Xã chúng tôi chịu nhận mốc dưới từ Đò Lạc. Trên đến ruộng tư xứ Cửa Sĩ, còn người xã ấy cứ theo sổ cũ. Không chịu mà bỏ đi. Nay tấm bia nói trên đã bị mất, nhưng vết tro ở chân bia vẫn còn dấu mới. Vì vậy xã chúng tôi bèn mời lão Kiểm, lão Tứ ở xã Cư Chánh giáp ranh; Lão Thái ở xã Xuân Hòa gần cạnh, cả hai xã cùng tập trung tại chỗ bia đá ngôi mộ cổ ở dải núi Thọ Xương thuộc xứ Động xã chúng tôi để xem xét thực tế. Hỏi mệ Cứ: “Ai lấy trộm bia đá?”. Mệ Cứ khai miệng rằng: “Người xã Dương Xuân lấy trộm bia đá ấy đi rồi!”. Xã chúng tôi cùng hai xã đều có nghe cả, cho nên lập giấy này để làm bằng. Trên đây là giấy chứng nhận.
Ngày mồng 2 tháng Hai nhuận năm Gia Long thứ 10.
Người lập tờ bằng: Xã trưởng Hạ – Hoàng Ngọc Hạ (điểm chỉ).
Những người chứng nhận:
Người xã Cư Chánh: Lão Kiểm – Nguyễn Ngọc Kiểm (điểm chỉ)
Lão Tứ – Nguyễn Văn Tứ (điểm chỉ)
Người xã Dương Xuân: Lão Thái – Phan Văn Thái (điểm chỉ)
Người xã láng giềng: Thầy Cường (ký)
Lão Dụng – Hoàng Văn Dụng (điểm chỉ)
Lão Tiệp – Hồ Hữu Tiệp (điểm chỉ)
Người viết giấy: Thầy đồ Đặc – Hồ Hữu Đặc (ký)”
(Trích Di sản Hán Nôm…, sđd, tr 253 và 259).
Văn bản này đã chứng tỏ rằng, dưới thời vua Gia Long (1802 – 1820) ở Huế đã từng tồn tại một địa danh có tên Thọ Xương. Đó là một vùng đất gò và núi, điều này đúng với thực tế. Vì địa điểm này đối diện với chùa Thiên Mụ bên kia sông Hương. Và như thế một có thể xác định câu ca dao “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương có nguồn gốc từ Huế.
Còn câu ca liên quan đến Hà Nội thì tất cả các địa danh đó đều nằm trong bài Hà Nộ. Tức cảnh được sáng tác bởi nhà thơ Dương Khuê, toàn bài như sau:
Phất phơ ngọn trúc, trăng tà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
Mịt mùng khói toả ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
(Nguồn: Xứ Đoài thơ, Quỹ Hỗ trợ Văn chương & Cuộc sống biên soạn, NXB Hội nhà văn, 2012).
Vậy bài thơ về các địa danh ở Hà Nội do Dương Khuê sáng tác có trước. Hay câu ca dao rất sinh động, tinh tế đúng ngữ cảnh, phù hợp thực tế ở Huế có trước?
Điều đó có thể giải thích như sau:
1- Từ văn học dân gian —–> đến văn học sáng tác:
Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương. —> “Phất phơ ngọn trúc trăng tà/Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương”. (Thơ Hà Nội tức cảnh của Dương Khuê).
2- Từ văn học sáng tác——> văn học dân gian:
“Phất phơ ngọn trúc trăng tà/Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương”. —-> Gió đưa cành trúc la đà/Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương.