Tháng mười, năm Quý Dậu (1873), tức là năm thứ hai mươi sáu đời vua Tự Đức, trước đây tám mươi năm, quân Pháp đã đánh thành Hà Nội.
Nguyễn Tri Phương giữ thành không nổi, đã chết theo. Sau đó có cuộc thương thuyết giữa ta và quân địch. Nguyễn Văn Tường đã thương thuyết như thế nào để lấy lại thành Hà Nội?
Việc Nguyễn Tri Phương chết vì nước và việc Nguyễn Văn Tường thương thuyết ra làm sao, đó là đề tài bài nhỏ này, toàn theo tài liệu của ta cả.
Nguyên nhân sự quân Tây đánh thành Hà Nội là họ muốn chiếm đóng đồng bằng sông Nhĩ Hà và sau đó cả miền núi. Ta nhớ là họ đã chiếm đồng bằng sông Cửu Long. Nước Việt Nam ta gồm có hai đồng bằng phì nhiêu, ấy là đồng bằng sông Cửu Long ở phía nam, tức là Nam Việt ta bây giờ và đồng bằng sông Nhĩ Hà tức là Bắc Việt ta bây giờ. Quân Tây đã chiếm được miền nay họ muốn chiếm miền Bắc. Còn miền Trung ở giữa vốn chỉ là một dãy đất nghèo sẽ phải rơi vào tay họ.
Vậy tháng mười, năm Quý Dậu (1873) quân Tây đánh thành Hà Nội.
Lý do mà quân Tây viện ra là gì?
Nguyên vào hồi tháng sáu nhuận cũng năm Quý Dậu (1873), theo đúng sử ta thời “tàu Từ Phổ Nghĩa ở Hà Nội đã lâu, quyết ý thông thương. Vừa gặp quan tỉnh Nghệ là Tôn Thất Triệt được thư Phổ Nghĩa trả lời cho giám mục Ngô Gia Hậu nói rằng hiệp vốn, mở sự buôn từ Bắc kỳ đến Vân Nam. Tôn Thất Triệt liền dịch thư ấy tâu lên. Ngài khiến sao thư ấy giao cho Nguyễn Tri Phương và các tỉnh Bắc kỳ hết lòng phòng bị. Rồi tàu ấy chạy lên thượng du tỉnh Hưng Hóa”.
Tôi vẫn theo đúng nguyên văn sử của ta mà chép theo: “Tháng bảy, cơ mật tâu rằng tàu Từ Phổ Nghĩa từ mùa đông năm ngoái chạy tới Hà Nội bởi bọn khách buôn Bành Lợi Ký và Quan Tá Đình mưu lợi làm võ dục cho nó”.
Vậy tàu Từ Phổ Nghĩa (mà không biết theo bản nào, cụ Trần Trọng Kim chép là Đồ Phổ Nghĩa) tức là tên lái buôn Jean Dupuis đã muốn mở đường thông thương qua Bắc kỳ đến Vân Nam và nhờ người Tàu đưa đường.
Vấn đề đặt ra cho Khâm mạng Nguyễn Tri Phương là tên Từ Phổ Nghĩa có muốn đi buôn thật không? Buôn gì thời phải khai. Hay là chủ ý đi do thám tình thế nước ta, tìm các địa điểm quân sự, dùng người Tàu dẫn đường để mưu cuộc xâm lăng Bắc Việt của chúng ta sau khi quân Pháp đã chiếm cả Nam kỳ lục tỉnh?
Nguyễn Tri Phương ủy cho Bố chánh Võ Đường mời Từ Phổ Nghĩa đến công quán hội nghị. Tên này đi khỏi. Chỉ có hai người Tàu tên là Uông Sư Gia và Hà Sần đến hội nghị mà thôi. Đọc sử cụ Trần Trọng Kim ta có thể tin là tên Từ Phổ Nghĩa – Jean Dupuis – có đến hội nghị.
Về hội nghị này, sử ta ghi như sau này:
Tiền “Võ Đường nói: đồ quân khí lẽ phải triệt lại. Các ông phải khai các người trong tàu để khám”.
Sự xem xét các võ khí và sự kiểm điểm người trên tàu của tên Từ Phổ Nghĩa là thuộc quyền của một nước độc lập. Và lẽ tất nhiên là bổn phận của các nhân viên phụ trách. Chúng ta có gi là khiêu khích đâu, ấy thế mà hai tên Tàu kia không bằng lòng cho khám tàu. Lẽ tất nhiên là họ theo lệnh của Tù Phổ Nghĩa Cụ Trần Trọng Kim có viết rằng:
“Khi hai bên đến hội đồng, quan ta nói rằng sự giao thiệp nước Pháp với nước Nam đã có tờ hòa ước năm Nhâm Tuất (1862) và sự đem muối và gạo lên bán ở Vân Nam là trái với luật bản quốc.
Đồ Phổ Nghĩa cãi rằng ông ấy có lệnh quan Tàu cho là đủ, không cần phải xin phép gì nữa, rồi đứng dậy ra về”. Vấn đề đặt ra cho ta là người Pháp, dù là một tên lái buôn, phủ nhận sự độc lập của ta (xin xem lại Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim).
Tôi chắc là đã có nhiều cuộc thương thuyết. Dù sao thái độ của người Pháp đã rất rõ ràng: mưu cuộc xâm lăng, để chiếm đồng bằng sông Nhĩ Hà và miền núi cũng như họ đã chiếm đồng bằng sông Cửu Long. Việc tên lái buôn Từ Phổ Nghĩa chỉ là một cớ mà thôi, một cớ để gây chuyện, để xâm lăng. Khi t
Việc này là một việc lớn.
Việc đưa đến triều đình.
Cũng trong tháng bảy năm Quý Dậu (1873), vua Tự Đức khiến Binh bộ tham tri Phan Đình Bình sung khâm phái ra Hà Nội hiệp đồng Nguyễn Tri Phương xử trí việc Từ Phổ Nghĩa. Sử ta chép như sau này:
“Tàu Từ Phổ Nghĩa chở súng ống và gạo, muối lên Vân Nam rồi chạy đến sông Hà Hòa thuộc tỉnh Sơn Tây”.
Quân Pháp hồi đó đã chiếm đóng toàn cõi Nam Việt, bèn phái viên quan ba An Nghiệp đi tàu tới cửa Đà Nẵng rồi chạy ra bến Hà Nội (An Nghiệp tức là Francis Garnier – cụ Trần Trọng Kim viết là Ngạc Nhi).
Nguyễn Tri Phương chức khâm mạng, Bố chánh Võ Đường, Lãnh binh Nguyễn Đăng Nghiễm ra trú quán đón rước. Chính vua Tự Đức đã khiến quyền tạm dọn nơi trường thi để khoản đãi An Nghiệp (trường thi tức là địa điểm Thư viện Trung ương Hà Nội).
Vậy thời An Nghiệp đã tới Hà Nội, được đón tiếp long trọng.
Theo thư của người Pháp (Pháp soái đóng ở Sài Gòn) thời An Nghiệp chỉ có sáu mươi tên lính, được vua Tự Đức cho ra Hà Nội là để, theo đúng như sử ta chép, “bảo tàu Từ Phổ Nghĩa lui tàu ra để bàn định điều lệ thông thương”.
Triều đình ta vui lòng mở cuộc thông thương với Pháp nhưng nếu Pháp muốn dùng Từ Phổ Nghĩa lấy tàu mà lui tới trên sông Nhĩ Hà trước khi có điều lệ thông thương thời thật là vô lý.
Nay An Nghiệp ra Hà Nội để bảo Từ Phố Nghĩa rút tàu ra biển thời là việc “phải” của chính phủ Pháp. Vậy An Nghiệp ra Hà Nội. Tên này ra Hà Nội được đón tiếp long trọng. Đáng lẽ phải bảo tên Từ Phổ Nghĩa cùng tàu trở ra biển. Nhưng các tàu cứ ở lì ra ở bến Hà Nội (bến Đồn Thủy ở phía Lò Lợn).
Sử ta chép như sau này:
“Quan năm nước Pháp đem năm chiếc tàu hỏa (tàu biển chạy bằng máy chứ không bằng buồm) tiến đến Đồ Sơn”. Công điệp của người Pháp cho biết rằng: “Một chiếc chạy lên Hà Nội còn bốn chiếc rồi cũng tới đó”.
Vậy người Pháp ngoan cố.
Mượn cớ Từ Phổ Nghĩa để sai An Nghiệp ra, bề ngoài nói là để đuổi Từ Phổ Nghĩa nhưng sự thực là để chiếm chỗ để có thể mưu cuộc xâm lăng.
Rồi năm tàu máy đến tiếp viện. Họ có bao nhiêu quân? Chứng cớ xâm lăng đã rõ ràng.
Đồng bằng sông Nhĩ Hà sẽ bị mất hay sao? Sẽ cũng bị mất như đồng bằng sông Cửu Long hay sao? Nước mất hết hay sao? Nguyễn Tri Phương đã nghĩ như thế nào? Chiến hay hòa? Chiến như thế nào? Hòa trong điều kiện nào?
Dù sao, quân Pháp đã đánh thành Hà Nội và thành này đã bị hạ.
Và Nguyễn Tri Phương đã chết theo thành.
***
An Nghiệp muốn mau mở việc buôn. Y mới dự định hòa yết hòa ước ấy, ước với quan ta: việc mới dự định thôi mà y đã giao tỉnh niêm yết hòa ước ấy.
Nguyễn Tri Phương bèn trả lời. Sử chép là: “Chưa có triều mạng, không dám thiện hành”. Một do đã trả lời một cách có lý.
Vậy An Nghiệp đã áp bức ta quá và Nguyễn Tri Phương giả Việc thông thương giữa hai nước là do hai chính phủ quyết định, có đâu do một tên quan ba Tây tự ý quyết định. An Nghiệp đã cư xử như thế nào?
Sử ta chép một cách rất sơ sài sự việc xảy ra. Vì đây là một chăng? quốc tang. Có lẽ sử thần động lòng trắc ẩn không muốn nói dài. “An Nghiệp giận, ngày mồng một tháng mười năm Quý Khâm mạng Nguyễn Tri Phương với con là phò mã Nguyễn Lâm (Nguyễn Lâm ra thăm cha) giữ của Đông Nam. Binh Pháp phá của ấy trước. Lâm bị đạn chết, Tri Phương bị thương, thành liền mất”.
Chúng ta nên chú ý tới chữ “thình lình”: quân Pháp đã đánh bất ngờ, không tuyên chiến. “Lâm ra thăm cha” có lẽ Nguyễn Lâm muốn ra trợ chiến cho cha. Hà nội
Còn nhiều chuyện về sau giữa Pháp và ta.
Đoạn sau tôi sẽ nói tới.
Bây giờ tôi tiếp tục nói về Nguyễn Tri Phương. Sách Sử ghi như sau:
“Nguyễn Tri Phương mất ở nhà trú thự thành Hà Nội. Trước nhân bị thương, ở tại đó. Đến đây không chịu ăn uống; người Pháp đưa cháo và thuốc, ông đều phun ra cả, rồi mất”. Tôi không biết là vào ngày nào mà vị anh hùng dân tộc này đã xa ta, nhưng chỉ trong tháng mười một năm Quý Dậu (1873) (Các tư liệu lịch sử cho biết Nguyễn Tri Phương mất ngày 20-12-1873 (tức 1-11 âm lịch). [BT]).
Tháng mười hai, vua Tự Đức, theo sử chép rõ ràng “nhớ đến Nguyễn Tri Phương một nhà tử tiết, truyền quan tỉnh Hà Nội sai dân phu hộ táng quan tài ông và phò mã Nguyễn Lâm về làng an táng và tặng phò mã Lâm hàm Binh bộ thị lang để khuyến người trung hiếu”.
Năm Ất Hợi (1875), tháng sáu, nghĩa là mười chín tháng sau khi Nguyễn Tri Phương đã chết, sau khi thành Hà Nội bị An Nghiệp đánh bất thình lình, vua Tự Đức cho lập nhà thờ ở sinh quán vị anh hùng dân tộc này, tức là ở làng Đường Long phủ Thừa Thiên.
Thuê thuyền ở Huế, đi theo sông Hương ra cửa Thuận An rồi ngược theo phá lên phía Quảng Trị ta sẽ ghé vào làng Đường Long. Cách đây độ mười lăm năm tôi đã tới chiêm bái nhà thờ Nguyễn Tri Phương. Không biết nhà thờ nay còn hay không. Sử thần ở Quốc sử quán có ghi như sau này:
“Năm Ất Hợi (1875) tức là năm hai mươi tám đời vua Tự Đức, về tháng sáu, ngài cho lập nhà thờ Trung Hiếu tại làng Đường Long phủ Thừa Thiên.
Khi ấy ngài nghĩ tới Nguyễn Tri Phương (tặng Binh bộ tả tham tri) và em là Nguyễn Duy (tặng Binh bộ tả tham tri), là Nguyễn Lâm (tặng Binh bộ tả thị lang), hoặc vì nước bỏ mình, hoặc vì cha tuẫn tiết, trung hiếu tiết nghĩa nhóm về một nhà, họ Bọn đời xưa cũng không hơn được, cho nên đặc mạng lập nhà thờ ở làng, tuế thời khiến quan huyện sở tại đến tế”.
(Họ Bọn là Bọn Khổn đời Tấn đương đau gắng ra đánh giặc, bị chết. Hai con là Chẩn và Hu thấy cha tử trận liền ra đánh đều bị bại cả. Vợ Khổn là Bùi Thị Vũ thấy hai con khóc rằng: cha là trung thần, con là hiếu tử, còn phàn nàn gì?). Nguyễn Tri Phương chết năm bảy mươi bốn tuổi.
Trên đây, tôi kể chuyện Nguyễn Tri Phương đã chết vì việc giữ thành Hà Nội năm 1873. Bây giờ việc sẽ như thế nào? Đó là phần thứ hai bài này, nói về Nguyễn Văn Tường người đã dùng ngoại giao để thu lại thành Hà Nội.
***
An Nghiệp thình lình đánh thành Hà Nội. Chúng ta đã thua. Việc lẽ tất nhiên là phải tâu ngay lên vua Tự Đức. Sử chép như sau này: “Ngài khiến quan thương bạc (một vị quan coi về ngoại giao) làm thư báo cho quan soái Pháp biết và tự cho sứ bộ ở Gia Định giảng bàn cho khéo”.
Sứ bộ là quan của ta đặt ở miền Nam đã bị mất rồi, chú quyền không ở trong tay ta nữa. Sứ bộ cũng như là lãnh sự và trụ sở đóng ở một chỗ gần cầu Ông Lãnh. Chữ cầu Ông Lãnh và chợ Ông Lãnh ở Sài Gòn nhắc lại cho ta là đất Nam đã bị quân Pháp cai trị trực tiếp và triều đình có lãnh sự ở ngay đất nước Việt Nam! Giảng bàn cho khéo nghĩa là thế nào?
Lập trường của ta rất rõ ràng: không có thể bàn việc thông thương giữa hai nước khi mà An Nghiệp chiếm cứ thành Hà Nội. Sử chép rõ như sau này:
“Xin sức An Nghiệp giao lại thành Hà Nội mới tiện định ước”. ta: không có thể nói chuyện được!
An Nghiệp đóng quân ở Hà Nội là ỷ thế quân sự uy hiếp. Thái độ của người Pháp rất rõ ràng: họ muốn chiếm nước ta chứ không phải là chỉ thông thương mà thôi. Chứng cớ là An Nghiệp đã coi đất Bắc như thế đã bị chiếm. Sử chép như sau này:
“Vừa gặp báo rằng An Nghiệp xin đặt quan mới làm việc tỉnh Hà Nội để tiện bàn việc thông thương.
Ngài giao đình thần lựa người giỏi đặt làm quan tỉnh để coi việc. Còn quan tỉnh Hà Nội cũ và quan khâm mạng, khâm phải, không kể người còn kẻ mất, đều phải cách chức tra cứu. Lại khiến Trần Đình Túc, Trương Gia Hội cùng giám mục Bình, linh mục Đăng qua tỉnh ấy hội nghị”.
Chúng ta đã hao quân tổn tướng về sự gian trá của Pháp, ấy thế mà bây giờ ta lại phải chịu điều kiện của tên An Nghiệp là phải thay các người đã chống lại Pháp.
Bằng những ai? Có phải bằng những người do Pháp đề nghị hay không? Giám mục Bình và linh mục Đăng là ai? Là hai người tên là Bohier và Dangelzer, có lẽ do chính phủ đề cử. Vậy vua Tự Đức và triều đình đã phải chịu nhục. Nhưng mà cũng không xong!
Quân Pháp ỷ thế mạnh làm càn. Sử chép như sau này: “Nhưng binh Pháp đã đặt quan trị tỉnh Hà Nội và làm lời hịch báo các tỉnh có ba khoản:
1. Triệt lính giữ cửa ải bên Tàu.
2. Nhổ cừ dưới sông.
3. Yết điều thông thương.
Rồi lại toan mưu tới lấy các tỉnh:
Ngày mười lăm đánh lấy tỉnh Hải Dương,
Ngày mười sáu đánh lấy tỉnh Ninh Bình,
Ngày hai mươi mốt hãm tỉnh Nam Định.
Bốn tỉnh nối nhau thất thủ”.
Cũng trong tháng mười, năm Quý Dậu (1873), cụ Trần Trọng Kim có chép như sau này:
“Thành Hà Nội thất thủ rồi, quan ta thì trốn tránh đi cả, giặc cướp lại nhân dịp nổi lên. Đại úy Francis Garnier lại cho những người theo với mình đi làm quan các nơi để chống với quan triều rồi lại sai người đi đánh lấy tỉnh Ninh Bình, Nam Định và Hải Dương.
Quan ta ở các tỉnh đều ngơ ngác không biết ra thế nào, hễ thấy người Tây đến là bỏ chạy. Bởi vậy, chỉ có người Pháp tên là Hautefeuille và bảy người lính Tây mà hạ được thành Ninh Bình và chỉ trong hai mươi ngày mà bốn tỉnh ở trung châu mất cả”.
Cụ Trần Trọng Kim đã tham bác rất nhiều sách; có hai quyển bằng chữ Pháp: L’Empire d’Annam của Charles Gosselin và Le Tonkin de 1872 à 1886 của chính Jean Dupuis. Cụ có viết là: “Ta cũng nhờ có sách ấy mà kê cứu ra được nhiều việc rất là tường tận”.
Cụ là một sử gia, lẽ tất nhiên là phải xét sử liệu của ta và của Tây nhưng hai quyển sách nói trên là do thực dân viết ra, có đâu giá trị bằng những tài liệu rõ ràng, rất kín đáo của Quốc sử quán. Vả lại cụ viết trong thời Pháp thuộc mà kiểm duyệt rất khắc nghiệt với những tư tưởng quốc gia và dân tộc, dù là căn cứ vào tài liệu xác đáng của ta. Vậy tôi xin mạn hương hồn cụ mà ghi sau đây mấy nhận xét của tôi. y tế DỊCH tuổi.
1. Người Pháp muốn xâm lăng đất Bắc, dùng tên lái buôn Jean Dupuis làm cớ, rồi sai tên Francis Garnier ra để lừa dối ta, mở một cuộc chiến tranh chớp nhoáng, định thôn tính đồng bằng sông Nhĩ Hà một cách dễ dàng. Trong giai đoạn đầu họ đã đạt được nhiều kết quả.
2. Nhưng bảo rằng: “Quan ta ở các tỉnh đều ngơ ngác không biết ra thế nào, hễ thấy người Tây đến là bỏ chạy” thời thực là nói quá. Lực lượng của ta hồi đó có nhiều. Và hai người, trong số nhiều người trung trinh báo quốc, là Hoàng Tá Viêm chức tiết chế Bắc kỳ quân vụ và Tôn Thất Thuyết, hai người này không phải có óc đầu hàng và không phải là nhà văn nhút nhát, vốn là võ tướng kia mà.
3. Vậy theo thiển kiến của tôi thời sau khi thành Hà Nội mất, Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết đã có một chiến thuật, ấy là cho quân Pháp xâm lăng, ta rút lui để bảo toàn lực lượng Rồi cho họ vào như vào chỗ không người. Số lượng họ ít. Ta sẽ đánh du kích. Ta ở thế thủ bất lợi, ta sẽ ở thế công!
Lịch sử cho ta biết là Trần Quốc Tuấn đã thắng quân Nguyên theo chiến thuật này. Chiến thuật này cũng đã đem ra áp dụng nhiều lần về sau nữa. Và đã đem tới nhiều kết quả tốt đẹp.
4. An Nghiệp đã cậy có súng ống hơn ta, đã lừa dối ta mà hạ thành Hà Nội và chiếm luôn Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định. Y sẽ bị thất bại về quân sự, vì lối chiến thuật du kích là lối chiến tranh cổ truyền của ta.
Về việc An Nghiệp chết như thế nào, ta không có tài liệu rõ ràng. Dù sao ta biết y bị chết ở ngoài ô Cầu Giấy, cách thành Hà Nội mấy cây số. Sử ghi sơ sài như sau này:
“Đạo quân thứ đồn Hương Ngạnh lén đánh giết An Nghiệp ở ngoại La thành”. Đây là một trận đánh du kích có Lưu Vĩnh Phúc tham dự hay không?
Từ Hà Nội ra, đi về phía phủ Hoài Đức ta phải qua một cái cầu. Hồi đó tất nhiên phải là một cái cầu gỗ của ta. Quân Pháp có thể đã làm một cái cầu phao hay cầu sắt. An Nghiệp bị dụ ra khỏi cầu. Tới quá địa điểm phủ Hoài Đức y bị phục kích.
Có một vị đã kể cho tôi biết y bị bắt như thế nào: y mắc vào câu liêm. Hiện giờ còn có mộ ở chỗ y bị giết. Mộ thực hay giả? Hoàng Tá Viêm lúc bấy giờ đóng quân ở Sơn Tây. Và lẽ tất nhiên là đã điều binh khiển tướng.
Vậy thời đứng về phương diện quân sự mà nói thời tên tổng chỉ huy quân đội Pháp đã bị bắt tại trận và bị giết. Nguyễn Tri Phương đã được trả thù.
Quân đội ta có thể mở ngay cuộc tổng phản công. Nhưng quân sự là một việc, ngoại giao là một việc khác. Vua Tự Đức không muốn đánh. Vì lý do gì? id gnorly Bây giờ chúng ta xét về ngoại giao của ta với Tây.
Cuộc ngoại giao này đã có trước khi An Nghiệp bị giết. Vì ta muốn hòa. Sử chép như sau này:
“Tháng mười, cũng vẫn năm Quý Dậu (1873), ngài phát giao sắc ấn cho sứ thần Lê Toán (cụ Trần Trọng Kim chép là Lê Tuấn) làm toàn quyền đại thần, Nguyễn Văn Tường làm phó, sắc ấn phát đến Gia Định. Quan Pháp soái nghe tin liền tới mừng. Sứ thần thương rằng: điều ước mới nay có thể định được nhưng xin xử trí việc ngoài Bắc cho mau xong, sẽ định điều ước. Quan soái liền chạy giấy sức An Nghiệp lui quân để ta vào thành làm việc. Lại thương nhờ Nguyễn Văn Tường dẫn quan Thống sát Hoắc Đạo Sanh (tức là Philastre) đi tàu hỏa đến cửa Đà Nẵng.
Khi đến kinh, ngài khiến Nguyễn Văn Tường sung khám sai đại thần hiệp đồng Hoắc Đạo Sanh hẹn đến ngày mồng một tháng sáu, lại tới Đà Nẵng đi tàu ra Hà Nội thương thuyết. Nhưng khiến làm thư báo cho quan soái biết và làm thư giao cho quan thống sát cứ đó mà làm”.
Vậy dù thành Hà Nội đã bị mất vì sự gian giảo của Pháp, dù Nguyễn Tri Phương đã bị chết, vua Tự Đức đã cố ý chủ hòa. Và sử chép là:
“Tháng mười một, quan tổng đốc mới Hà Ninh là Trần Đình Túc tuân lời chỉ chuẩn trước đương bệnh gắng đi, cùng quan tuần phủ mới là Nguyễn Trọng Hiệp đến thành Hà Nội. Quan án sát mới là Trương Gia Hội, Lãnh binh Hoàng Đồn Điển và giám mục Bình, linh mục Đăng cũng đều tới một lần”. Bài An Nghiệp bèn rước vào thành để thương thuyết. Trong khi hai bên đang thương thuyết, y ra tảo thanh ở ô Cầu Giấy và bị giết, như trên tôi đã nói.
Trong khi Trần Đình Túc thương thuyết với An Nghiệp thời Nguyễn Tri Phương đường ngắc ngoải. Và quân đội ta ở ngoài, dưới sự lãnh đạo tối cao của Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết, sửa soạn đánh An Nghiệp, lẽ tất nhiên cũng phải phòng bị. Nhưng y đi ra ngoài tảo thanh, bị du kích quân bắt, giết. Trong khi đó thì tàu chở Nguyễn Văn Tường và Hoắc Đạo Sanh (Philastre) chưa cập bến Hải Phòng. Mục đích để hòa.
Những việc này dồn dập xảy ra trong tháng mười một năm Quý Dậu (1873). Ta thấy tình hình tháng ấy khó như thế nào? Một bên thời các võ tướng chủ chiến và đã thắng vì đã giết được An Nghiệp. Một bên thời các văn quan (là Trần Đình Túc và Nguyễn Văn Tường) phải chủ hòa, theo mạng của vua Tự Đức.
Hai bên văn, võ có liên lạc với nhau không? Bên võ đánh có thể thắng không? Bên văn hòa có lợi không?
Hai câu hỏi này, tôi không thể trả lời được, vì thiếu tài liệu. Dù sao, tra cứu theo bộ Thật lục ta có thể có thêm ít nhiều tài liệu xác đáng.
Sử cho ta biết mấy chi tiết sau này: “Lúc ấy An Nghiệp đã chết, kẻ bộ thuộc cử quan hai coi việc tới thương với Trần Đình Túc rằng: xin đợi việc khai thương nghị định rồi liền đem các tỉnh giao lại”.
Tại sao người Pháp lại tử tế như thế?
Theo ý tôi là họ đã bị đánh. An Nghiệp đã bị giết: họ sợ! Thái độ của ta như thế nào?
Sử chép như sau này: “Trần Đình Túc nghĩ người ta đã thôi đánh, ta đã triệt quân về quân thứ giữ bờ cõi, đề nghị hòa ước cho tiện”.
Đó là ý kiến của Trần Đình Túc, quan văn. Nhưng Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết nghĩ như thế nào? Phải có một sự liên lạc.
Sử ta cho biết một tài liệu rất quý, ấy là mấy câu sau này: “Trần Đình Túc ủy Nguyễn Trọng Hiệp, Trương Gia Hội đến quân thứ diện thương với bọn Hoàng Tá Viêm, Tôn Thất Thuyết. Viêm và Thuyết đều thuận nghe, đóng quân không đánh nữa”.
Vậy ta đã “không đánh nữa”! Đã đánh rồi và đã giết được An Nghiệp rồi. Ta có thể tổng phản công và tiêu diệt quân xâm lăng. Sở dĩ Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết đóng quân không đánh nữa là vì Trần Đình Túc. Dùng ngoại giao để lấy lại các tỉnh thành còn hơn là dùng quân sự. Vả lại, quân Pháp hứa là sẽ giao lại các tỉnh kia mà: đánh họ làm gì nữa? Vô ích.
Viên soái Pháp ở Sài Gòn (Dupré) sau khi nghe tin An Nghiệp chết bèn sai viên quan ba E-mê (Aymé) đi tàu hỏa ra Hà Nội để thay An Nghiệp.
Trần Đình Túc hội thương với E-mê ở Hà Nội.
Vua Tự Đức cho Trần Đình Túc nhưng lãnh tổng đốc Hà chức khâm sai, phỏng định thương ước, toàn Ninh mà sung quyền đại thần; Nguyễn Trọng Hiệp nhưng lãnh tuần phủ, hội đồng với khâm sai đại thần Nguyễn Văn Tường nghị định thương ước.
Bây giờ tài ngoại giao của Nguyễn Văn Tường mới tỏ ra trong việc tiếp thu các tỉnh mà quân Pháp đã chiếm.
Nguyên là người Pháp ngoan cố lắm: viên soái Pháp Dupré có cho ta biết là việc An Nghiệp đánh Bắc kỳ là tự ý của An Nghiệp chứ chính phủ Pháp không chịu trách nhiệm. Nghĩa là thế nào?
Nếu họ có đủ lực lượng để chiếm cứ các thành thời lẽ tất nhiên là họ không giao lại cho ta. Chẳng qua vì lực lượng họ không đủ, vì Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết có thể tiêu diệt được họ. Sự thương thuyết của Trần Đình Túc ở Hà Nội với E-mê có thể đưa tới sự hòa hay sự chiến. Chắc là hòa nhưng phải có sự bố trí quân sự như thế nào của ta thời quân Pháp mới hòa chứ. Dù sao, Nguyễn Văn Tường và Hoắc Đạo Sanh đương lênh đênh trên mặt biển trong khi ở Hà Nội, hội thương thuyết chưa quyết định ra sao cả. Chiến hay hòa? Dù sao bộ đội hai bên đều đã bố trí cả. xay sun gr úig url nup 21. Ngày mồng ba tháng mười một ta, Nguyễn Văn Tường từ Đà Nẵng ra, đi đến ngày mồng năm tới Cửa Cấm (Hải Phòng). Cụ Trần Trọng Kim đã chép rõ việc này.
Dù sao tôi cũng theo nguyên văn sử ta mà chép lại, gọi là thêm một tài liệu. Sử chép như sau này: “Khâm sai Nguyễn Văn Tường đi tàu với quan Thống sát Hoắc Đạo Sanh đến cửa Cấm”. Vừa lúc ấy quan Pháp ở Hà Nội đem thư báo rằng quân ta đánh thành. An Nghiệp với quan một, quan hai ra đánh đều bị chết. Vậy quân đội ta đã giết tên tổng chỉ huy quân đội Pháp là An Nghiệp ở gần Hà Nội, thuộc phủ Hoài Đức. Việc này là việc to.
Quân Pháp đã bị nhử (dụ) ra ngoài thành và đã bị phục kích quân giết chết, chính tên An Nghiệp đã bị giết. Đứng về phương diện quân sự ta đã có một chiến công quan trọng. Vậy ngoại giao sẽ như thế nào? Nguyễn Văn Tường sẽ xử trí như thế nào?
Sử chép như sau này:
“Hoắc Đạo Sanh (Philastre) và các quan dưới tàu đều đập tay tức giận, bảo Văn Tường rằng: Việc chắc không xong, phải phi báo quan Pháp soái (không nên ở lâu)”. Theo ý tôi, đây là một sự dọa nạt của Pháp. Sử lại chép tiếp:
“Văn Tường thấy đương giận lắm, e hư việc lớn, mới thong thả nói: Việc lấy Hà Nội, quý soái có nói không phải bổn ý, còn như sức binh của cả bốn tỉnh cũng mạnh mà nước tôi cũng không đem ra tranh hoành, thực là hai bên đều không trái ý nhau. Đến như việc An Nghiệp chết, hoặc tại kẻ trộm cướp nơi khác đến hoặc tại dẫn bổn xứ khích giận, việc chưa rõ ràng. Huống chi trả thành để mưu định ước là lệnh của quý soái. Nhận thành rồi mới nghị hòa là mạng vua nước tối. Chúng ta chỉ nên vâng mạng lệnh ấy. Còn như việc Hà Nội giết An Nghiệp cũng như An Nghiệp giết Nguyễn Tri Phương đều là việc tình hình, không phải chúng ta làm ra, nay chưa từng tới nơi biết việc thế nào, mà chỉ truyền nghe báo không, không những quý soái ở xa khó tính trước mà chúng ta đi chuyến này thiệt là phụ chức trách lắm”.
Hoắc Đạo Sanh đã xử trí như thế nào? Y có trở về Sài Gòn không? Theo đúng sử ta chép y theo lời đề nghị của Nguyễn Văn Tường. Nguyễn Văn Tường đề nghị như sau này:
“Chi bằng phi thư ra Hà Nội đem tàu hỏa nhỏ rước chúng ta tới nơi, như nên theo mạng lệnh trước, hội đồng mà làm thời càng hay hoặc nên hỏi rõ có An Nghiệp vì sao mà chết, rồi sẽ báo, vậy chẳng ổn tiện lắm sao?”.
Hoắc Đạo Sanh nghe theo, liền chạy giấy cho Hà Nội biết. Vừa gặp tàu Décrès (sử ta phiên âm là Đề-ta-gi) về, hiện đậu ở Đồ Sơn, Hoắc Đạo Sanh muốn qua đi tàu ấy mà cho chiếc tàu đưa mình ra là tàu D’Estrées (sử ta phiên âm là Đất-từ-gi) về Gia Định báo.
Nguyễn Văn Tường thấy chuyện lôi thôi, có thể hại cho ta, “Tàu quý quốc đã tới lại lui ra, e sĩ dân nghe tin ắt bắt bèn đề nghị thêm, như sau này: lon tren than, chước làm như Hà Nội, ai cấm ngăn được, sợ khi sau tổn hại còn lắm, lấy gì thưa lại với quý soái? Nay nên khiến tàu Đề-ta-gi ra cửa đón triệt giặc biển, còn chiếc tàu Đát-tờ-gi nên cứ chạy luôn tới Hải Phòng, trước giao lại thành Hải Dương, hiểu thị sĩ dân để rõ tình tin thiệt, rồi qua Hà Nội, giao lại hết các tỉnh thành và hỏi việc An Nghiệp, xong việc sẽ chạy giấy báo cáo cả một lần, mới là trọn vẹn”.
Hoắc Đạo Sanh nghe theo.
Y cho tàu chạy ra Hải Phòng đánh dẹp giặc biển là những quân Tàu ăn cướp. Rồi y giao lại bốn tỉnh cho quan ta cai trị. Quân Pháp ra khỏi thành Hà Nội, lui về Hải Phòng. Đoàn tàu Từ Phổ Nghĩa cũng lui về Hải Phòng.
Hoắc Đạo Sanh định ngày về Gia Định vì Pháp soái kỳ về Tây gấp quá y không được ở Bắc lâu ngày: về Gia Định sẽ bàn lâu về thương ước giữa hai nước.
Tháng mười hai, Pháp soái định qua đầu năm về Tây, y bèn phái Lê-na (Rheinart) ra Hà Nội thay Hoắc Đạo Sanh. Và y giục Nguyễn Văn Tường cùng đi với Hoắc Đạo Sanh về Gia Định để thảo luận về thương ước.
Vua Tự Đức dụ sứ thần Lê Toán, Nguyễn Tăng Doãn phải chờ Nguyễn Văn Tường vì Nguyễn Văn Tường bị đau. Tron “Ngày hai mươi bảy, tháng giêng, năm Giáp Tuất (1874), là năm Tự Đức thứ hai mươi bảy, hải quân thiếu tướng Dupré và ông Lê Toán, ông Nguyễn Văn Tường ký tờ hòa ước cả thảy hai mươi hai khoản”. Hòa ước này như thế nào?
Tôi không bình luận gì cả và tôi bây giờ kết luận về đề tài mà tôi đã nêu ra.
Việc thành Hà Nội, năm 1873, Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Văn Tường đã xử trí như thế nào? Nguyễn Tri Phương đã có thiện chí đối với người Pháp, đối với tên lái buôn Từ Phổ Nghĩa và ngay cả đến tên quan An Nghiệp. Nhưng hai tên này đã ngoan cố. Từ Phổ Nghĩa tự tiện đem tàu chở muối và súng đạn sang Vân Nam, dùng bọn Tàu làm hướng đạo, phủ nhận sự độc lập của nước ta. Rồi tên An Nghiệp trái với sự hứa của y là phải đuổi Từ Phổ Nghĩa, đã “thình lình” đánh thành Hà Nội. Rồi lại cho quân đi đánh lấy thành Ninh Bình, Nam Định và Hải Dương. Ba thành này đều mất trong vòng hai mươi ngày.
Nguyễn Tri Phương đã chết sau khi thành Hà Nội thất thủ. Nhưng tại sao ba thành kia lại mất một cách nhanh chóng và dễ dàng như thế?
Có phải vì ta không đủ quân lực để chống giữ không? Theo ý tôi thời ta đã để thành không cho quân Tây vào. Họ vào. Nhưng quân ta bố trí ở ngoài. Ta đã rút lui để bảo toàn lực lượng và để đánh du kích: giữ thế thủ là hại, trái lại, ra ngoài ta có thể khỏi thế công.
Chứng cớ là ta đã nhử tên An Nghiệp ra ngoài thành và ta đã giết nó. Quân Pháp biết là họ đã quá khinh ta. Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết đã cho họ biết là họ sẽ bại.
Vì vậy mà có việc Hoắc Đạo Sanh ra Hà Nội, do soái phủ Pháp ở Sài Gòn cử ra, cùng với Nguyễn Văn Tường là khâm mạng của vua Tự Đức.
Nguyễn Văn Tường đã xử trí như thế nào?
Trần Đình Túc chắc đã phải liên lạc với Nguyễn Văn Tường. Còn tình hình quân sự như thế nào, chắc Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết đã cho Nguyễn Văn Tường biết: chúng ta đã có thể tiêu diệt quân Pháp về quân lực. Nhưng sự chỉ huy tối cao là do vua Tự Đức quyết định. Hòa thì hơn và hòa là người Pháp phải trả lại cho ta tất cả các thành mà họ đã chiếm. Vậy Nguyễn Văn Tường chỉ việc ra tiếp thu các thành đó mà thôi.
Tên Hoắc Đạo Sanh đã cố ý dọa nạt Nguyễn Văn Tường. Nhưng dù hậu thuẫn quân sự mạnh, Nguyễn Văn Tường cũng đã là một nhà ngoại giao khôn khéo khiến cho sự chiến hóa thành sự hòa này ta có thể coi như là sự thắng.
Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Văn Tường đã là hai người mà lịch sử ghi tên. Một người là võ, chết vì nước. Một người là văn, khôn khéo, để gỡ.
Dù sao, Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết đã ở sau Nguyễn Văn Tường và chúng ta đã phải hùng hậu thời người Pháp mới chịu lui.