Có người cho rằng: “Công bằng mà nói thì dân tộc nào cũng có đầu óc thực dân cả, không nhiều thì ít, nhưng tôi nghĩ rằng thực dân Việt siêu hơn thực dân Pháp và Tàu nhiều, không tin ư? Thì Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp đã bị xóa trên bản đồ thế giới đó.” Tuy nhiên, xét lại lịch sử bang giao Việt – Chiêm thì sự suy thoái và tiêu vong của Chiêm Thành không phải đến từ tham vọng bành trướng của người Việt…
Sự thật là, hiện tượng người Việt từ lưu vực sông Hồng dễ dàng Nam tiến sinh sống trên vùng đất cũ của Chiêm Thành và đồng bằng sông Cửu Long phần nhiều không phải là do tham vọng bành trướng của người Việt, mà là một hệ quả tất yếu của sự suy thoái bên trong chính các chính sách trị quốc của người Chiêm thời bấy giờ.
Nước Chiêm Thành
Người Việt Nam thường gọi người Chiêm là Chàm. Tên Chiêm Thành là do người Hán đặt ra. Người Chiêm gồm nhiều sắc tộc khác nhau. Mỗi sắc tộc lại bao gồm nhiều thị tộc riêng lẻ, thường hay lẫn lộn đánh nhau. Có hai thị tộc mạnh nhất:
- Thị tộc Cây Dừa (Narikelavamca hay Kokosno) sống ở vùng đất Indrapura phía bắc thuộc các tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng và Nghĩa Bình ngày nay; vùng lãnh thổ họ có tên là Amaravati (từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 10).
- Thị tộc Cây Cau chiếm cứ vùng lãnh thổ mang tên là Panduranga từ đèo Cù Mông đến lưu vực sông Đồng Nai.
Do tập tục, lề thói khác nhau nên giữa hai thị tộc này cũng thường xảy ra xô xát. Các thị tộc nhỏ khác tuy sống trong hai vùng này nhưng tại các nơi rừng núi vẫn giữ độc lập với nhau. Tổ chức chánh quyền không chặt chẽ như thế, từ nội bộ Chiêm mầm mống chia rẽ vì sắc tộc đã có sẵn. Thêm vào đó, giới thượng tầng tăng lữ và quý tộc tuy thiểu số lại điều khiển đa số dân chúng quá nghèo khổ. Người Chàm thường hoặc là làm nông, đi biển hoặc làm hải tặc.
Khoảng năm 605, thị tộc Cây Cau trở nên hùng mạnh và cai quản luôn vùng lãnh thổ Indrapura phía Bắc của thị tộc Cây Dừa để thành lập nước Chiêm Thành. Chánh quyền Chiêm thường đem quân đi cướp bóc hoặc chinh phạt khắp nơi. Trên mặt biển, họ tổ chức những đoàn cướp biển. Hải tặc Chiêm một thời là mối hãi hùng cho những thương thuyền qua lại ở biển Đông từ Nam Trung Hoa cho đến Nam Dương. Suốt thời gian dài hải tặc Chiêm hùng cứ vùng biển Đông cho đến thời các nước phương Tây làm chủ Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương với những tàu bè lớn, trang bị súng ống tối tân, ngăn trở hoạt động của những người sống nghề cướp biển với những hải thuyền nhỏ và khí giới thô sơ.
Hoạt động hải tặc và buôn bán trên biển
Các hải thuyền Chiêm thường đi gây hấn nhiều nơi nên Chiêm Thành thường bị các nước đem quân đánh trả. Trung Hoa tuy ở xa nhưng cũng đã hai lần đến đánh Chiêm Thành vào các năm 605 và 1282.
Sẵn có lực lượng hải thuyền hùng mạnh, thương gia Chiêm buôn bán nhiều nơi khắp Đông Nam Á làm cho vương quốc Jawa chú ý vì bị cạnh tranh. Người Jawa hai lần đánh cướp Chiêm Thành. Một lần vào năm 774, người Jawa đánh chiếm và tàn phá thị trấn Aya Tra (Nha Trang) và năm 787, họ đánh phá thị trấn Panra (Phan Rang), gây nhiều tổn hại cho dân chúng địa phương. Sự bang giao giữa hai nước về sau tốt hơn vào cuối thế kỷ thứ 9, sau các cuộc trao đổi viếng thăm giữa sứ bộ hai nước và nhất là sau khi vua Chiêm Chế Mân lấy công chúa Tapani của vương quốc Jawa.
Chiêm Thành và Chân Lạp
Sau khi Phù Nam, nước lân bang phía nam Chiêm Thành bị Chân Lạp sát nhập vào giữa thế kỷ thứ sáu, Chiêm Thành áp dụng lối ngoại giao mềm dẻo để ngừa hờ sự bành trướng của Chân Lạp. Hoàng thân Chiêm Jadgaharm cưới công chúa Cavani con vua Chân Lạp Icanavar-man.
Đến thế kỷ thứ 9, bang giao giữa hai nước ngày càng căng thẳng, năm 950 Chân Lạp đem quân đánh Chiêm Thành ở vùng Nha Trang, nhưng giữa thời gian từ 1074 đến 1080, quân Chiêm lại xâm chiếm đến vùng Sambor (bắc Nam Vang). Năm 1145, quân Chân Lạp phục thù đánh chiếm Đồ Bàn của Chiêm. Năm 1177, vua Chiêm Jaya Indra-Varman phái một đội chiến thuyền hùng hậu tiến ngược dòng sông Cửu Long đánh phá thành Angkor, giết vua Chân Lạp, nhưng sau đó phải thối binh vào năm 1181.
Năm 1190, Chiêm Thành lại tấn công Chân Lạp lần nữa, nhưng lần này quân Chân Lạp phản công lại rồi tiến chiếm Đồ Bàn của Chiêm Thành, rồi chia nước Chiêm làm hai tiểu quốc đặt dưới quyền đô hộ của Chân Lạp. Năm 1192, hoàng thân Chiêm Vidyanandana đánh đuổi được quân Chân Lạp, thống nhất trở lại được nước Chiêm Thành.
Đến năm 1203, vua Chân Lạp đem đại quân đánh chiếm Chiêm Thành và sát nhập Chiêm Thành vào lãnh thổ Chân Lạp. Mãi đến năm 1220, dân Chiêm mới có cơ hội độc lập nhờ Chận Lạp bận rộn đối phó với Xiêm La (Thái Lan).
Chiêm Thành và nước Việt
Suốt thời gian dài Chiêm Thành thường hay quấy nhiễu miền Nam nước Việt. Năm 192, tướng Khi Liên của Chiêm từng kéo quân đánh phá vùng Tường Lam phía Nam quận Nhật Nam. Nhưng nước Việt suốt mấy thế kỷ vẫn phải chịu đựng vì mãi lo chống đỡ những cuộc xâm lăng của quân phương bắc.
Năm 982, sau khi chiến thắng quân xâm lược Tống, Lê Hoàn tìm cách lập lại quan hệ bang giao hòa bình và phái sứ giả sang giao hiếu với quốc vương Chiêm. Nhưng quốc vương Chiêm vẫn giữ thái độ thù nghịch với triều Lê, bắt giam sứ giả của Lê Hoàn. Do đó, Lê Hoàn phải kéo quân tiến đánh thủ đô Indrapura (Đông Dương, thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay), đánh bại lực lượng quân sự của Chiêm Thành. Sau khi hoàn thành thắng lợi đó, Lê Hoàn rút quân về nước.
Năm 1069, Chiêm Thành lại liên kết với nhà Tống để đánh nước Nam, một đạo quân do Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt chỉ huy tiến đánh kinh thành Phật Thệ tức Vijaya ở Bình Định. Bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ định đem về Thăng Long để trừng phạt. Chế Củ liền dâng tặng 3 châu: Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để cứu chuộc tự do cho bản thân. Vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành chỉ có mục đích cần ổn định vùng lãnh thổ phía Nam của Đại Việt để rảnh tay chống quân xâm lăng nhà Tống ở phương Bắc, chớ không có ý định chiếm đất của Chiêm Thành.
Đến thời Chế Mân, vua Chiêm vì muốn cưới cho bằng được công chúa Huyền Trân, đã hoàn toàn tự nguyện tặng hai châu Ô, Lý. Vua Chế Mân từng cưới công chúa Tapani của Jawa, nay lại cưới thêm công chúa Huyền Trân vì muốn tính bảo đảm an ninh cho triều đại ông ta.
Nhưng suốt thời gian dài, Chiêm Thành vẫn luôn luôn là mối đe dọa thường xuyên cho dân nước Việt, nhất là dưới thời Chế Bồng Nga, người đã bao lần đem quân uy hiếp ngay cả kinh đô Thăng Long. Suốt 30 năm dưới sự trị vì của Chế Bồng Nga, lãnh thổ Việt đã phải chịu nhiều cảnh cướp phá hủy diệt. Cho nên sau này khi bị nước Việt trả đũa, Chiêm Thành bị mất đất đến vùng Amaravati.
Từ năm 1660, lợi dụng tình thế chưa ổn định của Nguyễn Hoàng mới vào miền Nam, Chiêm Thành gia tăng quấy phá, buộc lòng Nguyễn Hoàng phái quân chống cự vượt đèo Cù Mông tiến chiếm Phú Yên, lập Phú Yên thành Trấn Biên. Để tạo sự hòa hiếu với Chiêm, chúa Nguyễn Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên đành gả con gái Nguyễn Phúc Ngọc Khoa cho vua Porome vào năm 1631.
Năm 1653, vua Chiêm là Bà Thấm đem quân đánh Phú Yên. Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần đưa quân vượt đèo Cả sang đánh. Bà Thấm thua, dâng đất vùng Kauthara để xin hàng. Hiền Vương nhận rồi lập thành phủ Diên Khánh (trong đó có Nha Trang ngày nay).
Năm 1692, vua Chiêm Bà Tranh đem quân tấn công phủ Diên Khánh, chúa Nguyễn Phúc Chu sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh đến kháng cự. Qua năm sau, Cảnh bắt được Bà Tranh và giải về Phú Xuân. Chúa Nguyễn Phúc Tần lấy đất Chiêm còn lại lập ra Phủ Thuận, nhưng vẫn bổ nhiệm người Chiêm như Kê Bà Tử, Ta Trà Viên cai trị Phủ Thuận. Như thế đến thời này nước Chiêm Thành không còn nữa, tuy người Chiêm vẫn còn một vùng đất tự trị ở Bình Thuận.
Đến thời vua Minh Mạng, hoàng thân Chiêm Po Phank To cai trị vùng tự trị này lại theo về phe với tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt, nên bãi bỏ tổ chức hành chánh riêng của người Chiêm.
Những nguyên nhân khiến Chiêm Thành suy thoái
1) Tín ngưỡng của Chiêm Thành lúc đầu là tín ngưỡng thờ Thần, du nhập từ Ấn Độ rất xa xưa, đến giờ vẫn còn thấy dấu tích qua tên gọi những vị Thần Ấn Độ đó. Nhưng qua thời gian, dù vẫn dùng những cái tên đó, họ lại chuyển qua thờ phụng tình dục, thờ dương vật và âm vật, cúng thờ hình tượng tình dục, ngày nay nó được gọi là “văn hóa phồn thực”. Chính điều này khiến cho đạo đức của xã hội Chiêm Thành xuống dốc nghiêm trọng. Bản thân xã hội vốn lại tiềm ẩn sự xung đột giữa các tộc với nhau. Vậy nên xã hội không duy trì được sự ổn định cần có.
2) Chiêm Thành thường đem quân đi cướp bóc quấy rối khắp nơi từ Việt Nam, Mã Lai, Chân Lạp, xem chiến tranh cướp bóc như một loại hình sinh hoạt kinh tế. Đánh phá như vậy thì kết quả cũng sẽ bị chinh phạt trở lại. Những cuộc chiến tranh như thế làm cho nước Chiêm Thành kiệt quệ. Tài sản quốc gia tập trung vào việc mua sắm vũ khí, nuôi quân khiến nền kinh tế quốc gia lụn bại, dân chúng càng nghèo khó. Những cuộc chinh phạt trả đũa của các nước như Việt Nam, Jawa, Chân Lạp càng tàn phá Chiêm Thành nặng nề. Chiêm thành từng hai lần bị Chân Lạp đô hộ.
3) Trên mặt biển, người Chiêm Thành tổ chức những đoàn hải tặc khiến một thời hải tặc Chiêm Thành là mối hãi hùng cho những thương thuyền qua lại ở biển Đông. Nhưng khi các nước phương Tây như Bồ, Hoà Lan, Anh đưa các thương thuyền lớn trang bị khí giới tối tân đã làm mất quyền lợi của những nước sống bằng nghề cướp biển với những tàu nhỏ trang bị khí giới thô sơ như Chiêm Thành. Chiêm Thành mất đi một nguồn lợi tức lớn.
4) Nền kinh tế của Chiêm Thành dựa trên căn bản ngoại thương. Chiêm Thành có một đội hải thuyền đông đúc để buôn bán với các nước Mã Lai, các nước ở quần đảo Indonesia. Nhưng từ cuối thế kỷ 16, tiếp theo sự sụp đổ của các nước Hồi Giáo khối Indonesia và sự xuất hiện của các thương thuyền Tây phương, nhất là của Hòa Lan và Bồ Đào Nha thì việc giao thương bằng đường biển của người Chiêm Thành lâm cảnh bế tắc.
5) Khi hai nguồn lợi tức chính là cướp bóc và giao thương bị bế tắc thì chỉ còn hy vọng vào nông nghiệp. Nhưng từ xưa tới nay, Chiêm Thành không mấy chú ý đến ngành nông. Đất đai bỏ hoang không cày cấy. Trước đây vì thường đi gây hấn khắp nơi nên Chiêm Thành thường bị các nước, nhất là Chân Lạp, Jawa, đem quân đến đánh trả đũa, thì cảnh cướp bóc tàn phá lại xảy ra ngay trên lãnh thổ Chiêm Thành. Các thánh địa Chiêm Thành bị tàn phá hủy hoại và cứ mỗi lần sau chiến tranh như thế, triều đình Chiêm Thành lại chỉ lo bắt dân tái dựng thánh địa thì còn đâu người để lo gầy dựng nông nghiệp. Người Chiêm Thành chỉ còn biện pháp sau cùng là cướp phá phần đất biên cương phía Nam của đất Việt, để rồi cứ như thế tạo thêm những cuộc chinh phạt của người Việt. Tại những vùng đất mà Chiêm Thành đã dâng để cầu hòa, chúa Nguyễn đưa dân mình tới khai thác, mở mang cày cấy, sống hòa lẫn với dân Chiêm Thành nên họ ở lại rất đông vì ở đấy đời sống thiết thực được chăm lo, tổ chức xã thôn được xây dựng vững mạnh. Sở dĩ được như thế vì các chúa Nguyễn cần xây dựng một hậu cứ vững chắc để chống các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Các chúa Nguyễn không muốn trong khi họ phải lo chống cự với chúa Trịnh mà người Chiêm liên tục tạo tình thế bất ổn thường xuyên ở biên giới phía Nam.
Như vậy đủ thấy rõ nguyên nhân suy thoái của Chiêm Thành không phải đến từ người Việt, và chính nhờ những suy thoái đó mà cuộc Nam tiến của người Việt phần nào dễ dàng hơn. Điều tương tự cũng xảy ra đối với Thủy Chân Lạp.
Phan Hưng Nhơn
Trích đăng có chỉnh sửa từ bài viết
“Tại sao hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp biến mất trên bản đồ thế giới?”
Theo Nhật Báo Văn Hóa (nhatbaovanhoa.com)