Về vấn đề nguồn gốc của triều Lý Trần, thì dựa trên một số ghi chép lịch sử, đã xuất hiện luồng quan điểm cho rằng đây là các triều đại có nguồn gốc từ phương Bắc, hay “gốc Trung Quốc”, dẫn tới một kết luận rất chủ quan về nguồn gốc dân tộc Việt: các triều đại Việt đều do người Trung Quốc lập nên và cai trị người bản địa.

Chúng tôi sẽ tìm hiểu sâu và toàn diện hơn về lịch sử của người Việt, để có thể thấy được nguồn gốc của các triều đại Lý – Trần, nền tảng văn hóa của các triều đại này, cũng như xác minh thông tin về các khái niệm được lấy làm cơ sở kết luận về “nguồn gốc Trung Quốc” của các triều đại đế vương Việt Nam.

1. Nguồn gốc các triều Lý – Trần:

a. Nguồn gốc triều Lý:

Suy đoán về việc triều Lý có nguồn gốc Mân bắt nguồn từ bức thư của Từ Bá Tường gửi cho vua Lý được chép trong sách “Lý Thường Kiệt: lịch sử ngoại giao và tông giao triều Lý” của Hoàng Xuân Hãn.

Sách Lý Thường Kiệt – lịch sử ngoại giao và tông giao triều Lý chép: “Vả hai năm trước, có người Tống tên Từ Bá Tường, quê châu Bạch, thuộc Quảng Tây, đã cho người thầm thông với vua Lý. Bá Tường nguyên đậu tiến sĩ, nhưng không được bổ làm quan. Y viết cho vua Lý (1073) nói rằng: “Tiên thế Đại vương vốn người đất Mân. Tôi nghe nói công khanh ở Giao Chỉ cũng nhiều người đất Mân. Bá Tường này, tài lược không kém người, nhưng không được trọng dụng ở Trung Quốc. Vậy xin giúp Đại vương.”” [1]

Đây là cơ sở cho những suy đoán về việc Lý Công Uẩn có nguồn gốc Mân, tuy đất Mân cũng là đất cũ của cộng đồng tộc Việt, nhưng việc Lý Công Uẩn có gốc Mân xét về thực tế thì hoàn toàn không có cơ sở. Như ghi chép ở trên, thì Từ Bá Tường nói rằng “tôi nghe nói công khanh ở Giao Chỉ cũng nhiều người đất Mân”, vậy thì việc ông cho rằng vua Lý gốc Mân cũng chỉ là “nghe nói” mà thôi. Tin đồn này có vẻ như đã có từ lâu, sau đó, trong An Nam chí lược, Lê Tắc có nhắc tới tin đồn này và xác minh rằng “không đúng”.

An Nam chí lược chép về Lý Công Uẩn: “Người Giao Châu (có kẻ bảo là người Phúc Kiến, không đúng), có tài thao lược, Lê Chí Trung dùng làm đại tướng, rất thân tín.” [2]

Như vậy thì thông tin Lý Công Uẩn gốc Mân mới chỉ dừng ở mức tin đồn, không có sử sách chính thức nào của người Việt xác minh vấn đề này. Các sách đều ghi chép ông là người Giao Châu. Xét về nguồn gốc triều Lý, thì còn là vấn đề nguồn gốc gia tộc của ông, đây cũng là một lỗ hổng để giả thuyết về Lý Công Uẩn gốc Mân hay cho rằng ông có gốc Trung Quốc có không gian tồn tại.

Đại Việt sử lược, sách đầu tiên và sớm nhất chép lại về Lý Công Uẩn, cho chúng ta thấy những thông tin rất rõ ràng và đơn giản: Thái Tổ gốc là ở Cổ Pháp, thuộc Bắc Giang, mẹ là người họ Phạm, ngoài ra thì không thấy thông tin gì thêm về nguồn gốc của ông.

Đại Việt sử lược chép: “Vua Thái Tổ tên húy là Uẩn, họ Nguyễn (tức họ Lý – ND) người ở Cổ Pháp thuộc Bắc Giang. Mẹ là người họ Phạm, sanh ra ngài vào ngày 17 tháng 2 năm thứ 5 niên hiệu Thái Bình (đời Đinh Tiên Hoàng, tức là năm Giáp Tuất – 974- ND)”. [3]

Sau đó, Đại Việt toàn thư lại chép thêm những thông tin có phần kỳ quái, dị đoan về nguồn gốc của Lý Công Uẩn, đi rất xa so với những gì mà sách Đại Việt sử lược đã chép lại.

Đại Việt sử ký toàn thư chép về nguồn gốc Lý Công Uẩn: “Họ Lý, tên húy là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp Bắc Giang, mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất, niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 [974] thời Đinh.” [4]

Chúng tôi muốn đặt nghi vấn cho Ngô Sĩ Liên, soạn giả của Đại Việt toàn thư: ông đã dựa vào đâu để thêm chi tiết “mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp rồi có chửa“? Những ghi chép sớm hơn trong Đại Việt sử lược đã cho thấy Lý Thái Tổ biết cha mình là ai, ông đã truy tôn cha là Hiển Khánh Vương.

Đại Việt sử lược chép: “Vua truy tôn cha là “Hiển Khánh Vương”, mẹ là “Minh Đức Thái Hâu”, sách lập vương hậu sáu người, lập con trưởng là Mã làm Thái tử, những người con trai còn lại đều phong tước hầu.” [3]

Vế trên nhắc về “truy tôn cha”, và sau đó là “mẹ”, thì đây rõ ràng là cha và mẹ đẻ của Lý Thái Tổ, không phải là cha nuôi như một số giả thuyết đã đề xuất, nếu là cha nuôi, thì sách chắc chắn đã ghi rõ.

Như vậy, về nguồn gốc triều Lý, thì ông là người Việt, có nguồn gốc tại vùng đồng bằng sông Hồng, cụ thể hơn là ở Cổ Pháp, hoàn toàn không đủ cơ sở để khẳng định ông gốc Mân hay gốc Trung Quốc, đây chỉ là một sự đồn đoán của người thời đó mà không có cơ sở nào từ các ghi chép lịch sử xác minh. Bên cạnh đó, thì Lý Thái Tổ cũng biết cha mình là ai, nên những ghi chép trong sách Đại Việt sử ký toàn thư về nguồn gốc Lý Công Uẩn là không có cơ sở.

b. Nguồn gốc triều Trần:

Đại Việt sử ký toàn thư chép về nguồn gốc triều Trần: “Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8 triều Lý.” [4]

Trong ghi chép này, thì Đại Việt sử ký toàn thư chép về việc vua (Thái Tông) là người đất Mân, hay sách còn chú thêm: “có người nói là người Quế Lâm“, Quế Lâm thuộc Quảng Tây ngày nay, những ghi chép này khác với triều Lý, các chi tiết được chép lại khách quan hơn, nên đây là những thông tin có thể tin được.

Xét về thực tế lịch sử, thì cả hai vùng này đều là các vùng của cộng đồng tộc Việt trong lịch sử. Các bằng chứng lịch sử đã chứng minh về sự tồn tại của quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt, chính là các quốc gia Xích Quỷ và Văn Lang, chúng tôi đã tiến hành chứng minh dựa trên các bằng chứng về di truyền, khảo cổ, lịch sử [5][6][7][8], tất cả các cơ sở đều cho thấy sự tồn tại của các quốc gia này trong lịch sử. Các vùng đất thuộc cộng đồng tộc Việt bị chiếm dần bởi các triều đại Hoa Hạ [6], nhưng các cư dân tại các vùng vẫn lưu giữ ý thức dân tộc rất mạnh mẽ.

Bản đồ mô phỏng nước Xích Quỷ, nước Văn Lang, trung tâm từng thời kỳ và các dòng di cư hình thành các quốc gia. [Ý tưởng và thực hiện: Lược Sử Tộc Việt, designer: Quốc Toản.]

Trong vùng phía nam Dương Tử, từ thời kỳ tộc Việt tồn tại cho tới tận ngày nay, thì vẫn còn nhiều dân tộc tách ra từ cộng đồng tộc Việt không chấp nhận sự đồng hóa của người Hán, lánh về các vùng xa xôi trung tâm để tránh sự cai trị và đồng hóa của các triều đình Hoa Hạ, cho nên hiện trạng ngày nay, chúng ta vẫn thấy được rất nhiều các dân tộc hiện vẫn còn là những dân tộc độc lập sinh sống trong vùng này. Nên nhà Trần có gốc Mân Việt hay Quế Lâm, thì cũng là cư dân có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt trong lịch sử.

Tổ tiên nhà Trần được ghi chép rằng làm nghề chài lưới, đây cũng là một cách thức tách khỏi sự cai trị và đồng hóa của người Hoa Hạ, bảo tồn ý thức về văn hóa, nguồn gốc, sau đó đã lánh về Việt Nam, để trở về với người những người gần gũi về nguồn gốc với mình. Vì vậy nên không thể cho rằng nhà Trần có gốc Mân Việt tức là người Việt đã bị đồng hóa thành người Hán, hay là người Trung Quốc, mà là những người gần gũi về nguồn gốc dân tộc, văn hóa với người Việt. Các ghi chép lịch sử đã cho thấy triều đình nhà Trần cũng mang những đặc trưng văn hóa rất sâu sắc của người Việt.

2. Văn hóa các triều Lý – Trần:

a. Trống đồng:

Điều đầu tiên, và cũng là quan trọng nhất, đó là các triều Lý – Trần cũng sử dụng trống đồng, đây là một cốt lõi văn hóa của người Việt. Việc kế thừa và sử dụng trống đồng đã cho thấy được vai trò của văn hóa Việt trong văn hóa các triều đại Lý Trần. Không chỉ một, mà có rất nhiều trống đồng với các hoa văn Rồng đặc trưng của thời kỳ này đã được tìm thấy, chứng minh cho sự sử dụng rộng rãi của trống đồng trong thời kỳ này,

Trống đồng Bình Yên được tìm thấy tại Thanh Hóa đã được đúc cùng với hoa văn Rồng thời Lý. [9]

Hình ảnh trống đồng Bình Yên và bản dập hoa văn mặt trống. [10]

Trống đồng này cho chúng ta thấy được sự kế thừa trống đồng trong thời kỳ Lý – Trần, việc khắc hoa văn Rồng đặc trưng của triều đại này đã cho thấy các triều Lý và Trần thực sự đã đúc và sử dụng trống trong các hoạt động của mình.

Ngoài trống đồng Bình Yên, thì còn một số trống khác được khắc họa hình Rồng đặc trưng thời Lý – Trần, hiện đang được lưu trữ tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam.

Trống đồng được khắc hình Rồng thời Lý – Trần. [10]

Trống đồng được khắc hình Rồng thời Lý – Trần. [10]

Trống đồng được khắc hình Rồng thời Lý – Trần. [10]

Trống đồng được khắc hình Rồng thời Lý – Trần. [10]

Trống đống có nguồn gốc từ miền Bắc Việt Nam, kế thừa trực tiếp từ văn hóa Đông Sơn như chúng tôi đã chứng minh ở bài viết khác [6]. Sự xuất hiện của trống đồng ở các vùng khác đơn thuần là sự ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn, nó không có ý nghĩa phủ nhận sự kế thừa văn hóa cổ của thời Lý – Trần.

Bên cạnh đó, thì trống đồng cũng xuất hiện trong ghi chép lịch sử, khi sứ giả Trần Phu của nhà Nguyên đã chép về trống đồng trong chuyến đi sứ của mình tới Đại Việt.

金戈影裏丹心苦,
銅鼓聲中白髮生. [11]

“Kim qua ảnh lý đan tâm khổ
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh”

(“Thấy gươm sắt lóe sáng lòng đau khổ
Nghe tiếng trống đồng sợ bạc cả đầu”).

b. Phong tục xăm mình:

Thời Lý – Trần, các triều đại này cũng kế thừa phong tục xăm mình của tộc Việt, đây là một phong tục hoàn toàn không có trong văn hóa Hoa Hạ. Các dân tộc xăm mình trên thế giới cũng không ít, tuy nhiên để xét về bối cảnh lịch sử và sự kế thừa văn hóa, chúng ta cần nhìn nhận dựa trên phong tục cổ thời kỳ Hùng Vương, người Việt đã có phong tục xăm mình hình rồng, tới thời kỳ Lý – Trần, các triều đại vẫn tiếp tục kế thừa phong tục xăm mình hình rồng như thời kỳ cổ đại của người Việt, các dân tộc khác có tục xăm mình cũng không phủ nhận được sự kế thừa đó.

Đại Việt sử ký toàn thư chép về thời Anh Tông nhà Trần: “Thượng hoàng có lần ngự cung Trùng Quang, vua đến chầu, quốc công Quốc Tuấn đi theo. Thượng hoàng nói: “Nhà ta vốn là người hạ lưu (thủy tổ người Hiền Khánh), đời đời chuộng dũng cảm, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc”; “Lại hồi quốc sơ, quân sĩ đều xăm hình rồng ở bụng, ở lưng và hai bắp đùi, gọi là “thái long” (rồng hoa).Vì khách buôn người Tống thấy dân Việt ta xăm hình rồng, lỡ gặp gió bão thuyền đắm, thuồng luồng không dám phạm tới, cho nên gọi là “thái long”.” [4]

Đại Việt sử lược chép vào thời Thánh Tông nhà Lý: “Cấm những người đầy tớ trong nhà thích (xăm) hình con rồng trên mình.” [3]

Đại Việt sử lược chép về thời Anh Tông nhà Lý: “Những nhà quyền thế không được tự tiện thu dùng các hạng người trong dân chúng. Các bậc vương hầu trong lúc đêm tối không được qua lại trong thành. Kẻ gia nô của bậc vương hầu không được xăm hình rồng ở nơi ngực.” [3]

Đại Việt sử ký toàn thư chép về thời Nhân Tông nhà Lý: “Cấm nô bọc của các nhà dân trong ngoài kinh thành không được thích mực vào ngực, vào chân như cấm quân cùng là xăm hình rồng ở mình, ai phạm thì sung làm quan nô.” [4]

c. Phong tục ăn trầu:

Thời Lý – Trần, các triều đình này cũng có một phong tục rất quan trọng của người Việt trong văn hóa hoàng gia, đó là ăn trầu và sử dụng trầu cau!

Đại Việt sử ký toàn thư chép về giai đoạn chuyển giao giữa nhà Lý và nhà Trần: “Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh.” [4]

Đại Việt sử ký toàn thư, (Trần) Thái Tông hoàng đế chép: “Tháng 2, dời dựng điện Linh Quang ở Đông Bộ Đầu, gọi là điện Phong Thủy. Khi xa giá dừng ở đây, các quan đưa đón, đều dâng trầu cau và trà, nên tục gọi là điện Trà.” [4]

d. Phong tục đi chân trần:

Các vua, quan thời Lý, Trần cũng đi chân đất, đây là một đặc trưng phân biệt rất quan trọng giữa văn hóa tộc Việt và văn hóa Hoa Hạ. Người Hoa Hạ quan niệm rằng mũ áo, giày dép là biểu trưng cho sự văn minh, nhưng người Việt thì không như vậy, trong văn hóa người Việt thì đi chân trần là một phong tục quen thuộc từ thời cổ đại cho tới tận ngày nay. Nếu nhà Trần gốc Hoa Hạ, thì sẽ không bao giờ có chuyện họ lại đi chân đất theo đặc trưng của người Việt.

Chu Khứ Phi (Trung Quốc) trong sách “Lĩnh ngoại đại đáp” (1178) chép về phong tục thời Lý như sau: “Người nước ấy áo thâm, răng đen, búi tóc chuy kế, đi chân đất, sang hèn đều như vậy.” [12]

Chư Phiên Chí (năm 1225) của Triệu Nhữ Thích có bình luận rằng nam nữ Đại Việt đều đi chân đất. [12]

Hình ảnh trong tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ cho thấy cả tầng lớp quý tộc, quan lại và binh lính của nhà Trần đều đi chân đất.

e. Kết luận:

Như vậy thì phong tục của các triều đại Lý – Trần mang những dấu ấn rất đậm nét của văn hóa Việt, đây vốn là những đặc trưng văn hóa mà người Hoa Hạ xem là của “man di”, nếu các triều đại này có nguồn gốc từ phương Bắc, thì những đặc trưng văn hóa này chắc chắn sẽ không xuất hiện trong các tầng lớp hoàng tộc của các triều Lý – Trần.

3. Sự công nhận thời Hùng Vương là gốc của mình của triều Lý – Trần:

Triều Trần cũng công nhận về thời kỳ Hùng Vương của người Việt, với những ghi chép về văn bia thời nhà Trần có ghi về đền thờ gốc là đài Kính Thiên được xây dựng từ thời Hùng Vương thứ 6, các vị vua nhà Lý, nhà Trần đã biết tới sự tích này, phong thần và cho tu sửa đền thần, ban tặng sắc phong.

Văn bia được tìm thấy tại xã Lại Yên, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, được khắc vào thời Trần, do Hàn lâm học sĩ Trương Hán Siêu soạn năm 1312 và được khắc lại vào đợt trùng tu năm 1816. Văn bia chép như sau: “石碑之立,以錄事跡,以徵功德云耳。 想初 天神王祠下,粵自雄王六世,朱鳶部雒將奉造乾巽向 敬天臺,每歲初春,恭行奉 天大禮。如有水旱災變,民間祈禱,輒靈應焉。逮夫先朝 順天七年春,帝省覽山川,拜封 當境城隍至明大王。厥後,歷代諸帝有修造 ○(6)神祠,有封贈 神敕。蕩蕩乎,巍巍乎,一等威靈矣 仰今 聖帝陛下,位儼九重,躬端萬化。為子孫長久之計,追思夙願,以顯神功 ○ 詔攽錢參百緡,特差修理。仰見工完,鳩集式示規程。此億萬年之功德也,有若是夫。且修文德以恢平治之功;以造神祠,以展敬誠之意。于以衍宗社無疆之福,乃編錄古今事跡詳勒于珉,以垂萬世。” [13] – “Bia đá được dựng lên là để ghi chép sự tích và phô trương công đức vậy. Nhớ xưa, ngôi đền thờ vị thiên thần giáng xuống nước Việt này [là] đài Kính Thiên do Lạc tướng bộ Chu Diên đời Hùng Vương thứ 6 vâng mệnh dựng lên (hướng Tây bắc – Đông nam), hàng năm vào đầu xuân tiến hành đại lễ tế trời, nếu như có nạn lụt, hạn hán hay hỏa hoạn, nhân dân đến cầu đảo là luôn luôn linh ứng. Vua triều trước năm Thuận Thiên thứ 7 (1017) đi thăm cảnh núi sông [đến đây] phong hiệu cho thần là “Đương cảnh thành hoàng Chí Minh đại vương”. Từ đó về sau, vua các triều đều có tu sửa đền thần và ban tặng sắc phong. Mênh mông thay, cao cả thay, uy linh bậc nhất vậy. Kính nay, thánh đế bệ hạ ngôi ở cửu trùng, chở che muôn vật, vì con cháu mà tính kế lâu dài, nhớ lời nguyền cũ mà làm rạng rỡ công lao của thần. Hạ chiếu ban 300 quan tiền, đặc sai tu sửa ngôi đền, tới khi mọi việc hoàn thành, thực là tụ tập đủ mọi qui thức. Qui mô này chính là công đức của ức vạn năm. Sở dĩ làm vậy chính là tu sửa văn đức để khôi phục cái công bình trị, xây dựng đền thần nhằm thể hiện cái ý kính thành. Nhờ đó mà kéo dài được cái phúc vô hạn của tông xã, cho nên ghi chép sự tích xưa nay khắc rõ ràng vào đá cứng để lưu truyền muôn đời.”. [14]

Những ghi chép này đã công nhận về sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương ở các triều đại Lý – Trần, nó cũng cho chúng ta thấy được một sự trân trọng đặc biệt với di sản từ thời Hùng Vương được truyền lại của các vị vua các triều Lý – Trần, nếu đây là các vị vua gốc Hoa Hạ, chắc chắn họ không phải nhọc công bảo tồn những di sản của dân tộc Việt như vậy.

4. Về việc dẫn những tư liệu lịch sử Trung Quốc:

Trong các văn bản như Chiếu Dời Đô, Hịch Tướng Sĩ của các triều Lý – Trần, thì Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuấn đã dẫn nhiều những chi tiết lịch sử của Trung Quốc, tuy nhiên, đây không phải là một cơ sở để suy diễn và kết luận về nguồn gốc dân tộc. Văn hóa Việt trong thời kỳ tự chủ, bên cạnh sự lưu truyền ý thức văn hóa cốt lõi của dân tộc, thì người Việt cũng đã chịu những ảnh hưởng của văn hóa Hoa Hạ thông qua những chính sách áp đặt, đồng hóa, trong đó có việc học các sách kinh điển của phương Bắc.

Các sách kinh điển, bao gồm cả lịch sử của phương Bắc được sử dụng để giáo dục cho các tầng lớp hoàng tộc, quan lại, việc này thì không chỉ có ở người Việt, mà còn có ở các nền văn hóa khác chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Nhật Bản, Triều Tiên, tầng lớp hoàng tộc, quý tộc của họ cũng học các sách kinh điển của Nho giáo, cũng học lịch sử Trung Hoa, vậy nên nếu tra trong các ghi chép lịch sử hay các tài liệu của họ, chúng ta có lẽ cũng sẽ thấy các chi tiết lịch sử Trung Hoa được nhắc tới.

Vì vậy, đây hoàn toàn không phải là một cơ sở để xác định, nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc. Đơn thuần nó chỉ là một sự ảnh hưởng của văn hóa Hoa Hạ tới văn hóa Việt, là một điều tất yếu khi văn hóa Trung Hoa đã có một quá trình dài ảnh hưởng thông qua sự cưỡng bức (với các chính sách đồng hóa) và sự tiếp nhận tự nhiên của người Việt sau đó, với sự phát triển vượt trội của nền văn hóa này so với văn hóa Việt nói riêng, hay văn hóa trong vùng Đông Á nói chung, thì việc học hỏi là cần thiết và cũng không thể tránh khỏi trong thực tế lịch sử của thời kỳ đó.

5. Vấn đề Cao Biền xây thành Đại La và xây dựng nhà cửa:

Việc Cao Biền xây thành Đại La, hay cho làm nhà cửa từ ghi chép trong sách Đại Việt sử ký toàn thư đã làm cơ sở cho một số người cho rằng Cao Biền đã cho người Hán Hoa Nam xuống miền Bắc Việt Nam, xây dựng nhà cửa trong thành Đại La cho di dân từ miền Bắc xuống. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ dẫn trực tiếp các ghi chép lịch sử, phân tích những yếu tố phi lý mà giả thuyết này đã đề xuất.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Cao Biền giữ phủ xưng vương, đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước (khoảng 6,6 km vuông), thân thành cao trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ tường nhỏ trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đường bộ 34 sở. Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian.” [4]

Như vậy thì Cao Biền đã xây dựng La Thành, với diện tích khoảng 6,6km vuông theo cách tính hiện đại, trong ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư, thì Cao Biền đã “cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian”. Con số 40 vạn gian, nếu tính mỗi nhà có khoảng 4 gian, thì 40 vạn gian là khoảng 10 vạn nhà, mỗi gia đình có khoảng 4-6 người, tính trung bình là 5 người một hộ, thì 40 vạn gian là khoảng hơn 50 vạn nhân khẩu! 50 vạn nhân khẩu trong một diện tích hơn 6,6km vuông! Không cần là một nhà nghiên cứu cũng có thể thấy được sự phi lý trong con số này. Dân số toàn bộ Việt Nam thời tự chủ cũng chỉ khoảng 3-4 triệu người. Dân số Hà Nội tới thời Pháp thuộc (1918) cũng chỉ là 7 vạn người. Chưa kể tới việc Cao Biền lấy nhân công, kinh tế ở đâu để xây dựng nên 40 vạn gian nhà? Đây là một con số xây dựng nên cả một quốc gia, chứ không còn là một kinh thành đơn thuần nữa. Vì vậy, những ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư về Cao Biền “làm nhà cửa hơn 40 vạn gian” chắc chắn không có cơ sở tin cậy. Sự kiện Cao Biền xây thành Đại La và xây dựng nhà cửa cũng đã được Đại Việt sử lược chép lại, với con số thực tế hơn nhiều so với Đại Việt sử ký toàn thư.

Đại Việt sử lược chép: “Cao Biền đắp La Thành chu vi dài 1980 trượng linh năm thước, cao 2 trượng 6 thước. Chân thành rộng 2 trượng 6 thước. Bốn thành có nữ tường cao 5 thước 5 tấc. Địch lâu 55 sở. Môn lâu 5 cái. Ủng môn (cửa tò vò) 6 cái. Ngòi nước 3 cái. Đường bộ (?) 34 đường lại đắp chu vi dài 2125 trượng 8 thước, cao một trượng 5 thước. Chân đê rộng 3 trượng xây cất nhà cửa hơn 5000 căn.” [3]

Đại Việt sử lược cũng ghi diện tích thành Đại La tương tự với Đại Việt sử ký toàn thư, cũng khoảng 6,6km vuông. Sách ghi con số nhà cửa được xây dựng là 5000 căn, nhưng khi chúng tôi tra sách gốc thì sách lại chép là gian 間 giống như Đại Việt sử ký toàn thư, vậy có nghĩa đây là 5000 gian, trung bình một nhà có 4 gian và 5 người một nhà, thì 5000 gian là khoảng hơn 6000 người, đây là một con số thực tế hơn nhiều so với Đại Việt sử ký toàn thư.

Việc Cao Biền xây dựng thành Đại La cũng không có ý nghĩa gì trong việc tìm hiểu về nguồn gốc người Việt. Trị sở đô hộ của các triều đại Hoa Hạ vẫn thường được xây mới, củng cố qua các giai đoạn, nên việc xây thành Đại La cũng là một sự kiện bình thường trong bối cảnh lịch sử thời Bắc thuộc, đặc biệt là sau khi Đại La bị tàn phá bởi Nam Chiếu, nên không thể cho rằng Cao Biền cho xây thành Đại La để đón di dân từ Hoa Nam xuống. Bên cạnh đó, thì các ghi chép lịch sử cũng hoàn toàn không nhắc về một cuộc di cư lớn nào của người Hán Hoa Nam xuống vùng miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn này hay bất kỳ giai đoạn nào trong xuyên suốt lịch sử, nên không đủ cơ sở để cho rằng có một cuộc di cư của cư dân Hoa Nam xuống Việt Nam. Việc Lý Công Uẩn dời đô về thành Đại La, không nhất thiết là kế thừa Cao Biền, và nó cũng không có ý nghĩa kết luận Lý Công Uẩn là gốc Hoa Hạ. Đơn giản, khu vực thành Đại La được xây là nơi có địa thế tốt nhất để xây dựng kinh đô, Lý Công Uẩn nhận thấy điều đó, và chỉ nhắc tới sự kiện Cao Biền xây thành Đại La trong Chiếu Dời Đô như một cách tiếp cận, lấy đó làm cớ hỗ trợ cho việc dời đô của mình mà thôi.

6. Kết luận:

Như vậy, thì các tài liệu lịch sử đã cho thấy quan điểm rằng các triều đại đế vương Việt Nam: Lý và Trần có nguồn gốc “từ Trung Quốc” là hoàn toàn không có cơ sở. Các ghi chép lịch sử đã cho thấy triều Lý có nguồn gốc từ Việt Nam, triều Trần có nguồn gốc từ Mân Việt hoặc Quế Lâm, đây là các vùng đất tộc Việt cũ, không phải lãnh thổ của người Hoa Hạ, họ mới chiếm được các vùng đất này trong khoảng hơn 2000 năm nay. Các triều đại này cũng có nền tảng văn hóa chính là văn hóa tộc Việt, duy trì những đặc trưng văn hóa quan trọng nhất của cộng đồng tộc Việt nói chung và dân tộc Việt nói riêng. Tuy lịch sử đã không còn, nhưng tài liệu văn bia đã cho thấy họ cũng công nhận triều Hùng Vương là nguồn cội của dân tộc Việt. Vì vậy, những suy diễn về nguồn gốc dân tộc Việt dựa trên sự xuyên tạc về nguồn gốc các triều Lý – Trần là hoàn toàn không có căn cứ.

Minh họa: Todd Huynh.


Tài liệu tham khảo:

[1] Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (2014).

[2] Lê Tắc, An Nam chí lược. Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam (dịch). Nhà xuất bản viện đại học Huế (1961).

[3] Khuyết danh, Đại Việt sử lược. Nguyễn Gia Tường (dịch). Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh (2993).

[4] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1993.

[5] Lang Linh (2020), Bách Việt và cơ sở thống nhất của cộng đồng Bách Việt.
https://luocsutocviet.com/2020/02/24/478-bach-viet-va-co-so-thong-nhat-cua-cong-dong-bach-viet/

[6] Lang Linh (2021), Lịch sử hình thành và tan rã của cộng đồng tộc Việt.
https://luocsutocviet.com/2021/10/21/565-lich-su-hinh-thanh-va-tan-ra-cua-cong-dong-toc-viet/

[7] Lang Linh (2021), Phân tích về di truyền của cộng đồng tộc Việt.
https://luocsutocviet.com/2021/10/12/556-phan-tich-ve-di-truyen-cua-cong-dong-toc-viet/

[8] Lang Linh (2020), Tương quan cổ vật thời kỳ đồ đồng trong vùng Đông Á.
https://luocsutocviet.com/2020/05/25/494-tuong-quan-co-vat-thoi-ky-do-dong-trong-vung-dong-a/

[9] Thu Trang, Dấu tích thời Lý trên đất Thanh Hóa qua những cổ vật.
https://vanhoadoisong.vn/web/trang-chu/chuyen-muc-khac/990-nam-danh-xung-thanh-hoa/dau-tich-thoi-ly-tren-dat-thanh-hoa-qua-nhung-co-vat.html

[10] Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, Bảo tàng Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc, 广西壮族自治区博物馆, Viện Khảo cổ và Di tích Văn hóa Quảng Tây, Trung Quốc 广西文物考古研究所 (2011). Trống đồng Việt Nam 越南铜鼓. Nhà xuất bản Khoa học báo chí 出版社科学出版社.

[11] Hai bài thơ sứ giả Giao Châu, bản gốc trên ctext: https://ctext.org/wiki.pl?if=en&chapter=956475

[12] France Indochin, Tục đi chân trần của người An Nam.
https://www.facebook.com/216549342616068/posts/545969883007344/

[13] Thích Minh Tín, Giới thiệu văn bia đời Trần xã Lại Yên, Hoài Đức, Hà Nội. Tạp chí Hán Nôm, số 5 (120); tr. 71-76.
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=2294&Catid=723

[14] Nguyễn Kim Oanh, Về một tấm bia mang niên hiệu đời Trần.
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=737&Catid=541