[Người Tàu sang Nam ktừ bao giờ? – Quốc triều ta ngày trước chiêu tập dân Tàu và xử trí họ khôn khéo là thế nào? Người Minh hương.] 

Người Tàu có thế lực to lớn vững bền ở xứ Nam kỳ ta như ngày nay, vốn không phải họ gây dựng trong vòng mấy chục năm nay mà được, thực có công phu tích lũy đã từ hai ba thế kỷ nay rồi.

Nước ta, từ khi có lịch sử là giao thiệp ngay với người Tàu, vậy sự giao thiệp ấy, từ đời cận cổ giở lên thế nào ta không cần xét đến, vì không quan hệ gì đến cái đầu bài cuốn sách này cho lắm, ta chỉ nói chắc rằng: người Tàu bắt đầu sang Nam kỳ là vào khoảng cuối thế kỷ thứ 17 mà thôi.

Chợ Lớn

Chắc thế, năm 1680, vào giữa đời vua Hy Tôn nhà Lê, và chúa Hiền nhà Nguyễn, nhà Minh bên Tàu bị Mãn Thanh cướp ngôi, có một bọn quan Minh, là bọn Dương Ngạn Địch năm người, không chịu thần phục nhà Thanh, mới đem đồ đảng 7000 người và 50 chiếc thuyền, sang tình nguyện làm dân Annam. Chúa Hiền nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp (tức là Nam kỳ ngày nay, bấy giờ còn là đất nước Chân Lạp), bèn cho họ vào ở đất Đông Phố (tức Gia Định bây giờ). Bọn Dương Ngạn Địch mới chia nhau ra ở tản mác hai tỉnh Biên Hòa và Mỹ Tho, khẩn điền lập ấp, cày cấy làm ăn, ấy người Tàu di cư sang Nam kỳ, chuyến ấy là chuyến đầu tiên vậy.

Về sau đến năm 1715 (vào đời vua Dụ Tôn nhà Lê và chúa Nguyễn Phúc Chu) có một người khách Quảng Đông, tên là Mạc Cửu sang chiếm đất Hà Tiên của nước Cao Miên, rồi chiêu mộ những lưu dân mở mang cày cấy, và đem đất ấy xin thần phục chúa Nguyễn, chúa phong cho làm chức tổng binh, giữ đất Hà Tiên. Sau Mạc Cửu chết, con là Mạc Thiên Tứ lại được chúa Nguyễn cho tập phong để trấn đất Hà Tiên, Mạc Thiên Tứ xây thành, đắp lũy, mở chợ, làm đường, và rước thầy sang dạy nho học cho đất Hà Tiên. Trong lúc ấy, chúa Nguyễn ta xâm lược nước Chân Lạp, tức là khai thác xứ Nam kỳ, thì Mạc Thiên Tứ giúp đỡ có nhiều công lao to lắm.

Những lúc ấy, người Tàu sang tụ tập làm ăn đã đông đúc lắm rồi, song họ được quyền tự do hành động, chưa phải thuộc dưới quyền cai trị nào, vả chăng giữa hồi đó nước ta, một là đang cần người khai khẩn Chân Lạp, hai là trong nước đang lắm việc, nên chúa Nguyễn ta cũng chưa lưu tâm đến sự cai trị họ được. Mãi sau khi đức Gia Long đại định toàn quốc rồi, sửa sang lại nền chính trị, mới định hẳn ra thể lệ cai trị, người Tàu sang kiều ngụ đất ta. Thể lệ ấy khéo lắm, nên truyền mãi về các đời vua sau, và ngay đến người Pháp sang bảo hộ bây giờ, mấy điều đại cương trong thể lệ ấy vẫn giữ mà không bỏ.

Đại khái thể lệ ấy ngày xưa của ta như sau này:

Dân Tàu sang làm ăn bên ta, chẳng có để ở dưới một cái chế độ nào riêng, là hễ đến đất nước Annam, thì phải theo phong tục tuân luật pháp của Annam, chớ không nói lôi thôi đến chuyện quốc tế công pháp (Droit international) gì cả. Quyền lợi cùng được hưởng như người mình, hễ có tội thì cũng các quan mình xử. Nhưng triều đình ta nghĩ rằng: nếu đối với người Tàu, mà nhất thiết bắt họ phải đồng hóa với dân mình cả, thì không phải là cách chiêu phủ người ngoài, nên chi niên hiệu Gia Long thứ mười ba, (năm 1814) có Chỉ dụ cho dân Hoa kiều là người Tàu sang ở kiều ngụ bên ta được kết hợp với nhau từng đoàn thể, gọi là “bang” (congregation). Cứ mỗi bọn người nói chung một thứ tiếng với nhau (vì người Tàu mỗi tỉnh nói một thứ tiếng) thì lập thành một bang, như người Quảng Đông thì lập bang Quảng Đông, Phúc Kiến thì bang Phúc Kiến, v.v.

Năm Minh Mệnh thứ hai (1824), thì định mỗi bang bầu một người lên thay mặt, gọi là “bang trưởng”, (chef de Congregation) do những tay buôn bán giàu có ra làm, và phải có quan ta ưng chuẩn cho mới được.

Bang trưởng tức là người đứng liên lạc người trong bang và các quan ta, công việc cũng y như viên lý trưởng mình, nghĩa là có quyền thu thuế để nộp quan và xử đoán những việc lặt vặt xảy ra trong bọn họ với nhau.

Thuế thì cứ mỗi năm đến tháng mười thu, chia làm ba hạng

1. Người ngoài 60 tuổi thì được miễn thuế;

2. Những người chưa đến 60 tuổi, làm ăn khá, có thể đóng thuế được, thì để vào hạng “hữu vật lực”. 

3. Những người chưa có địa vị gì chắc chắn, thì chỉ phải nộp có một nửa thuế, gọi là hạng “vô vật lực”.

Những người Tàu sang ở nước ta chưa được ba năm, thì đều để vào hạng “vô vật lực” này, ấy là một cái chính sách hay của vua ta, để chiêu mộ người Tàu sang khai khẩn, vì bấy giờ ta còn cần nhiều nhân công lắm.

Theo lệ định năm Gia Long thứ 13 (năm 1814) thì bổ thuế mỗi người Hoa kiều phải đóng 2cây vải hay là sắt, đánh giá 60 quan tiền, nhưng năm Minh Mệnh thứ hai, đổi lại, bắt hạng “hữu vật lực” đóng mỗi năm 2 nén bạc, hạng “vô vật lực” một nén.

Hễ người Tàu phạm tội, thì cũng bị xử theo luật như người mình. Niên hiệu Tự Đức thứ 13 (năm 1838) đã định ra luật riêng để xử người khách. Tội nặng nhất thì bắt đi sung quân hay là đi đày. Mỗi lần bị tội đã mãn rồi, thì bị thích chữ vào mặt và đuổi về Tàu. Nếu người nào phải đuổi rồi, mà lại lần sang nữa, quan bắt được thì lại phải đi sung quân hay là đi đày trọn đời. Những người nào phạm tội trộm cắp, giết người, bán thuốc phiện hay là phạm các tội các khác, mà tỏ ý mình ăn năn thật, thì chỉ phải tội đi “thú” (quân lính có tội, phải đem đi đến những chỗ rừng rậm đất hoang, để mở mang ra, thì gọi là đi thú), đến đấy được cấp cho đất khai khẩn mà làm ăn, không thì bắt nhập tịch Minh Hương, giao cho người làng quản thúc.

Thế nào gọi là Minh Hương? 

Số là người Tàu sang làm ăn bên nước ta, không mấy người đem vợ theo, sang bên này mới lấy vợ Annam là thường. Triều đình ta muốn lợi dụng cái tình thế ấy, để cho tăng dân số nước mình lên, bèn định lệ rằng: hễ người nào do bố khách mẹ Annam đẻ ra, thì tức là dân Annam, bắt tụ họp thành ra làng riêng gọi là “Minh Hương” nghĩa là làng của người nhà Minh. Bất cứ dân lai khách ở chỗ nào, cũng có thể lập thành làng Minh Hương được cả, hễ ở đâu thì lập thành làng ở đó.

Năm Minh Mệnh thứ 10 (năm 1829) định lệ rằng: người Tàu nào sang làm ăn bên nước Nam được phép lấy đàn bà Annam, nhưng nếu đem vợ Annam về Tàu thì phải xử tội rất nặng, đem con lại về cũng vậy, và cạo đầu cho con mà để bím thì cũng phải tội, nghĩa là Triều đình buộc ngặt rằng: người Tàu lấy vợ Annam đẻ con, con ấy tức là dân Annam, để lại sự đông dân lên cho nước vậy. Đã là người Minh Hương, thì thất nhiết phải theo lễ nghĩa, y phục, luật pháp và đóng thuế má, cũng là được thi cử làm quan, y như người Annam cả. 

Xét lại, cái chính sách của Triều đình ta ngày xưa đối với dân Hoa kiều như thế, thật là chính sách hay lắm: một là không cho họ theo chế độ nào riêng, thì quyền cai trị hoàn toàn ở mình; hai là đặt ra bang, thì dễ phần kiểm đốc; ba là đặt ra Minh Hương, thì lợi cho dân số của mình; cái chính sách ấy vì hay như thế, nên người Pháp sang bảo hộ ta, vẫn noi theo đại cương ấy để đối với Hoa kiều, tuy có thay đổi ít nhiều, là bởi tùy thời bắt buộc, như là đánh thuế định người Tàu rõ nặng, và buộc người Tàu đi tỉnh nọ sang tỉnh kia, phải có thông hành, hộ chiếu vv… thì sự ấy cũng thường, không cần nói đến, vì cuốn sách này không có ý biên chép những luật lệ của Nhà nước đối với dân Hoa kiều, mà chỉ có ý phô trương cái thế lực Hoa kiều ngày nay ở Nam kỳ to lớn thế nào, là để tìm cách để kháng mà thôi.

Đoạn này mà nói đến những thể lệ của Quốc triều định ra để cai trị dân Hoa kiều, là cốt chứng tỏ rằng: nước ta ngày trước tuy ngoại giao có kém hèn, nhưng đến phương pháp nội trị, thì cũng đã là khôn khéo và chu đáo lắm vậy.

II

Dân số người Tàu trong Nam Kì – Năm bang Hoa kiều. – Đại khái cái nghề của mỗi bang. – Nghĩa đoàn thể của họ. – Việc lập lãnh sự. – Cái vấn đề “lấy khách” ở trong nước ta. 

Dân Tàu ở châu Á không khác gì dân Do Thái ở châu Âu, hễ gầm trời này, chỗ nào có thể kiếm ăn được, là thấy có gót chân họ, một người Hoa kiều ở Nam Dương quần đảo nói rằng: “Người đời chỉ nói phàm chỗ có ánh sáng mặt giời chiếu đến, không chỗ nào không có ngọn cờ nước Anh, ta cho rằng phàm chỗ có nước bể chảy đến, không chỗ nào không có người Hoa kiều”(1). Thật ra thì cái gót chân người Tàu, chẳng những thấy ở những chỗ có nước bể chảy đến mà thôi, tức chi hoang cắc như Tây Bá Lợi Á, xa xôi như mấy nước Nga, nước Áo ở giữa châu Âu cũng tìm thấy họ, có người nói: Hoa kiều rải rác ra các địa vực, rộng bằng người Anh, sức giàu có bằng người Do Thái, chịu khó như người Ấn Độ, nhanh lẹ như người Nhật Bản, đến như cái số kiều dân của họ ở đâu cũng đông, thì không kiều dân nước nào bì kịp được.

(1) Thấy ở trong sách “Kiều vụ vựng biên” của người Tàu làm ra.

Họ đến một chỗ nào, chẳng phải tranh thành cướp đất gì của người ta, nhưng mà khiến chỗ ấy cũng bị cái vạ như là tranh thành cướp đất, nghĩa là đến đâu, phần nhiều là nắm được cái thế lực đồng tiền, chiếm được cái chủ quyền kinh tế của người ta vậy.

Chính nước ta, mà thứ nhất là xứ Nam kỳ, bị phải cái vạ này.

Có vào đến xứ Nam kỳ, mới biết người Tàu ở trong nước mình là đông, mà cơ sở của họ là lớn. Bước lên thành phố Saigon, đi quanh những phố chợ Mới, chợ Cũ, là những phố rộng lớn và rộn rịp bằng mấy hàng Ngang hàng Buồm ở ngoài mình, đã thấy lúc nhúc những các chú, tính phỏng chừng cũng đến 3 hay 4 vạn người rồi, tuy vậy cũng còn là ít; đi gần 6 kilômét nữa vào đến Chợ Lớn (người Tàu gọi là Đề Ngạn,) là một thành phố toàn các chú cả, chưa kể đến nội dung ra thế nào, nhưng mới trông bề ngoài đủ khiến cho mình phải ghê sợ, xa xa đã trông thấy ống khói nhà máy nọ nhà máy kia, tua tủa lên ngang giời như hàng rào, nào tàu, bè, ghe, nốc, đậu trí trít ở mặt nước như mắc lưới, đã đủ giật mình về cái cảnh tượng ấy rồi; lại vào đến phố, thì phố xá rộng rãi, nhà cửa nguy nga, hết đường nọ đến đường kia, qua phố này sang phố khác, không phố nào không nhà hai ba từng, không nhà nào không buôn bán lớn, thôi thì hiệu to tiệm lớn các chú, vác gạo kéo xe các chú, chủ hãng nhà máy các chú, nói tóm lại, việc gì làm mà nảy ra to từng hàng vạn, nhỏ đến đồng xu, thì cũng mấy chú mấy thím “thiên triều” làm hết. Thành phố Chợ Lớn, đất rộng hơn một nghìn mẫu, thì các chú ở quá ba phần tư, dân số 13 vạn người, thì phần các chú già một nửa (7 vạn người ở trên bộ, và hơn 1 vạn người ở dưới nước); kể cái bình thế thành phố thì không rộng rãi đẹp đẽ như Saigon, như Hanoi, như Haiphong, nhưng kể đến các nơi công nghệ buôn bán nước ta, thì Chợ Lớn có vẻ hoạt động vào bậc nhất vậy.

Còn như số người các chú, rải rác ra làm ăn buôn bán ở Lục tỉnh cũng đông hết sức: từ chỗ thị thành dưới thuyền trên bến, cho đến thôn quê đầu xóm cuối làng, không có chỗ nào ta không thấy các chú, hoặc cửa hàng cửa hiệu, hoặc bán thịt bán rau, hoặc nghề kia nghề nọ, các chú làm không sót một thứ gì cả. Các chú ở đông đúc nhất là mấy tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, và Cần Thơ, và mấy tỉnh trù phú nhất trong Nam kỳ, mỗi tỉnh có đến hàng vạn và trên hàng vạn các chú ở cả, còn các tỉnh khác thì tỉnh nào cũng có năm sáu nghìn, bảy tám nghìn, ít nhất là ở mấy tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, là mấy tỉnh dân nghèo, ruộng ít, đất xấu, rừng nhiều, thế mà các chú cũng kéo nhau đến ở hàng nghìn với trên hàng chục nghìn được, như thế đủ biết trong Nam kỳ không số nào không có khách trú vậy.

Trong khoảng mười hai năm nay, họ sang mới lại cũng nhiều. Cứ kể từ năm 1912 cho đến năm 1922, trong 11 năm giời, số người Tàu trên 17 tuổi mỗi năm vào Nam kỳ như sau nay:

1912 13.200 người
1913 13.624 –
1914 10.143 –
1915 10.118 –
1916 9.998 –
1917 14.473 –
1918 15.889 –
1919 16.058 –
1920 17.078 –
1921 17.962
1922 19.505 –

Thế thì ra cứ kể trung bình mỗi năm là 14.368 người Tàu sang ta, ấy là chưa nói đến đàn bà con trẻ. Hễ mỗi chuyến tàu ở Hương Cảng và Thượng Hải sang, là có đến hàng trăm chú thím vào cửa Saigon, mà tháng nào cũng có vài chục chuyến tàu như thế, Nhà nước phải đặt ở Saigon một sở gọi là sở “Tân đáo” (Service de l’Immigration), chỉ chuyên trông nom về người Hoa kiều mà thôi. Đến như cái tổng số dân Hoa kiều ở Nam kỳ bao nhiêu, thì thấy mỗi chỗ nói một khác, nhưng xem cái tình hình trên kia, thì đại ước cũng đến 20 vạn người mới phải.

Trong số 20 vạn đó, thì người Quảng Đông là đông nhất cả, thứ đến người Phúc Kiến, thứ đến người Triều Châu, v.v. mà cũng dưới cái chế độ “Tùy tiếng chia bang, mỗi tỉnh lập bang” là cái chế độ của ta ngày xưa lập ra, và tác giả đã nói ở đoạn trước.

Hoa kiều chia ra làm 5 bang như sau này:

1. Bang Quảng Đông

2. Bang Phúc Kiến

3. Bang Triều Châu

4. Bang Hà Cá (HaKas)

5. Bang Hải Nam (Hainam)

Bang Quảng Đông là những người Tàu ở tỉnh Quảng Đông, và người ở phía Bắc phía Tây tỉnh ấy. Một mình bang này đã đến hơn 8 vạn người, chưa kể đến đàn bà con trẻ.

Người Quảng Đông giỏi nghề buôn bán và công nghệ lắm. Ở Chợ Lớn họ có hai nhà máy gạo to. Nội các hiệu to bán tơ lụa, các nhà máy cưa, các xưởng củi, các nhà làm gạch, làm đồ sứ, các lò vôi, các xưởng đóng thuyền trong thành phố này đều là tay người Quảng Đông chiếm độc quyền cả. Họ lại có nhiều nhà buôn chuyên nghề đem vật sản trong Nam kỳ như là da, sừng trâu, bông gòn, vân vân… xuất cảng ra bán ở ngoại quốc. Họ lại có cả nhiều xưởng đóng tàu nho nhỏ ở Chợ Lớn nữa, mà phần nhiều những tàu con chạy quanh Cửu Long Giang ở Nam kỳ, là của người Quảng Đông cả. Đến như làm nghề thầu khoán, bán các đồ gỗ, làm thợ nề, thợ mộc, thợ may, thợ đóng giày tây, các hàng thịt, các hàng cơm tây, cũng là người Quảng Đông làm hết.

Bang Phúc Kiến là những người Tàu ở phía tây nam Áo Môn. Dân số của họ ở Nam kỳ cũng đến 5, 6 vạn người. Người bang này cũng giỏi nghề buôn bán lắm, ở hai thành phố Saigon và Cholon, họ có rất nhiều hiệu to, và hầu hết các nhà máy gạo ở Cholon, và nghề buôn bán gạo trong Nam kỳ là vào tay họ làm cả. Còn thì phần nhiều buôn bán tạp hóa, bán rượu, bán đồ sắt, và làm mại biện (compradore,) ta vẫn gọi là chú mại bản cho các hiệu buôn tây và các cửa hàng khách, cho nên trong bang này, ta ít thấy có người đi làm thợ, hay hoặc đi ở, mà có dễ toàn thể là làm nghề buôn bán.

Bang Triều Châu số người cũng đến 5, 6 vạn, là người Tàu ở gần cửa bể Sán đầu (Swatow). Sán đầu cũng thuộc về tỉnh Quảng Đông, nhưng mà người Triều Châu lập thành ra bang riêng, là vì tiếng nói Triều Châu và Quảng Đông khác nhau.

Người Triều Châu cũng buôn bán, nhưng so với hai bang trên thì còn kém xa, mà số đông có ý chịu khó làm những tiện nghệ như là làm bạn thuyền, và làm cu li khuân vác hàng hóa lên tàu xuống tàu ở cửa bể Saigon, cho nên họ đã có hai ba nhà chuyên bao những hạng cu li khuân vác lúc nào cũng sẵn, mấy trăm người. Khách Triều Châu nấu nướng đồ ăn rất khéo cho nên cái nghề làm tiệm “cao lâu” của họ cũng phát đạt lắm.

Trong Nam kỳ, người Triều Châu ở các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Rạch Giá, Bạc Liêu đông, và cũng có cày cấy ít nhiều. Hai tỉnh Bạc Liêu và Rạch Giá có tới 13.865 người Minh Hương, toàn là con cháu người Triều Châu vậy.

Đến bang Hà Cá, thì chỉ có độ 1 vạn rưỡi hay 2 vạn người là cùng, toàn là dân Tàu ở phía đông bắc tỉnh Quảng Đông. Họ cũng có nhiều nhà buôn ở Sài Gòn và Cholon, song cũng tầm thường không đáng kể gì. Trong bang này, ta cũng thấy có một đôi người làm nghề thầu khoán, và có một vài chiếc tàu thủy chạy nữa. Người Hà Cá chuyên là những nghề thợ rèn, thợ đá, làm máy, đóng giày khách và làm bánh, những tiệm bán chè Tàu, và những hàng bán rau cỏ, thì cũng phần đông là người Hà Cá hết cả.

Sau hết đến bang Hải Nam, là những người Tàu ở cù lao Hải Nam gần vũng bể Bắc kỳ ta. Bang này ít người nhất, chỉ có chừng ngót một vạn người, mà buôn bán ở Sài Gòn và Cholon rất ít; phần đông người họ làm nghề đánh cá, và làm thuê trong những trại trồng hồ tiêu ở mạn Hà Tiên và Phú Quốc cả. Còn những người ở châu thành Sài Gòn và Cholon thì thường làm bồi cho các nhà tây, hay là nấu bếp cho các nhà hàng cơm, để kiếm ăn xoàng xoàng mà thôi.

Đại khái nghề nghiệp của năm bang Hoa kiều ở trong Nam kỳ như thế.

Ta vẫn chịu Hoa kiều ăn ở với nhau, rất là thân ái liên lạc, cái nghĩa đoàn thể của họ rõ rệt lắm, sự đó tuy cũng có bởi sẵn tính tự nhiên, và trong chỗ trường hợp, có lợi hại quan hệ đến nhau, cho nên không thể không được, nhưng cũng do cái chế độ lập ra bang, khiến cho họ dễ cố kết với nhau, mà chính phủ cũng dễ sai khiến vậy.

Bang, vì tổ chức lên có nhiều cơ quan ở trong, cho nên có lợi cho Hoa kiều được nhiều mặt lắm: vừa là gia đình, vừa là hương tộc, vừa là hội liên hiệp, vừa là phòng thương mại, vừa là tòa án, vừa là ông chủ ngân hàng, vừa là quan lãnh sự, vừa là hội cứu tế của họ nữa. Bang, danh hiệu tuy có một, nhưng mà cái thể chất ở trong thì chia ra vô cùng tận. Mỗi bang họp riêng để bàn việc lợi hại của mình mỗi bang có một quỹ riêng có nhiều tiền: mỗi bang có một người lãnh sự, tức là bang trưởng. Những người ra làm bang trưởng bao giờ cũng là người có tuổi, giàu có, và đã từng lịch duyệt lắm. Họ bầu bang trưởng, tuy cũng bỏ vé, nhưng chẳng qua là chiếu lệ đấy thôi, chớ kỳ thực họ đã cử một người nào ra với chính phủ, là dùng cách đồng thanh tuyên cử; một điều đó đủ chứng tỏ rằng họ dễ bảo nhau.

Kỷ luật trong bang rất nghiêm, đừng có tội giết người hay là tội gì nặng lắm thì mới phải phiền đến các quan và tòa án can thiệp vào, còn thì họ điều đình hoặc tài phán lấy với nhau cả. Thường khi người trong bang có phạm lỗi gì, thì những người có chức sự họp lại để xử đoán, hoặc tha hoặc phạt, cứ chiếu theo cái ý kiến của phần đa số mà làm. Họ có đủ cả nhà thương, nhà đẻ, vòi rồng để chữa cháy, đặt tuần để gác đêm, nhất thiết sự gì cần dùng cho họ, thì đều có đủ, như thế chưa chắc không phải do nghĩa đoàn thể mà ra.

Thứ nhất là cái nghĩa tương tư tương trợ của họ lại càng nặng lắm, cho nên mỗi khi có chú nào ở bên Tàu che dù đeo gói mới sang, là nhập ngay vào bang, lấy chỗ làm gia đình, làm hướng tộc cho mình, để bang giúp vốn và chỉ đường làm ăn, lại trông nom cho mình trong mọi công việc. Nếu ốm thì bang nuôi nấng, thuốc thang, muốn về nước mà không tiền thì bang cấp cho; nếu chết mà không có gì, thì bang tống táng cho rồi sau lại đưa hài cốt về Tàu, bang lại giúp đỡ cho nhà cửa, và chu cấp cho con cái đi học nữa. 

Vì bang đối với người trong bang chu đáo như thế, cho nên người trong bang đối lại với bang, phải phục tòng lắm. Hễ ai ra ý bướng bỉnh, không theo mệnh lệnh của bang, thì bang có cách đàn áp, hoặc phạt tiền hoặc đuổi ra. Tuy vậy không mấy khi ta thấy trong bang họ xảy ra những sự như thế, vì người Tàu đi làm ăn nơi xa, không biết ở một mình, bởi thế, họ lấy bang là cần dùng cho họ, mệnh lệnh gì của bang ra, là phải tuân theo răm rắp. Chỗ này ta đã thấy nhiều chứng cớ lắm. Xa thì năm 1908, các bang Hoa kiều, thứ nhất là bang Quảng Đông, nhất định để chế hàng Nhật, y như họ để chế dầu hỏa của Hoa Kỳ năm 1905, mà yết thị rằng: nếu ai còn mua đồ hàng Nhật nữa, thì phải phạt 50 đồng. Quả một độ không có người Tàu nào dùng đồ Nhật. Gần thì còn nhớ cách độ 5, 6 năm có phường xiếc Ý đại lợi (Italie) vào làm ở Saigon, vì kéo một người Tàu ở ghế trên xuống ngồi ghế dưới thế mà tất cả mấy bang lấy việc đó làm công phẫn, bảo nhau không ai đi xem. Quả nhiên, phường xiếc ấy, từ Saigon, ra Haiphong, Hanoi, cũng không có một người Tàu nào xem. Hai việc ấy đủ chứng tỏ cái nghĩa đoàn thể của người Tàu là đây là nặng lắm, không trách có nhiều người Pháp đã nghĩ mà phải lo rằng: hoặc người Tàu tự họ tham lam, hay bị ai xui khiến mà phản nước Pháp ở đất nước Nam này, thì tính làm sao? Nhưng nghiệm ra cái mục đích của người Tàu sang làm ăn ở đây là chỉ cốt kiếm ăn hay là làm giàu, chớ không có một điều sa vọng gì khác, (cái vấn đề này đoạn cuối sẽ nói kỹ hơn), vả chăng cũng không đủ sức làm Chính phủ phải lo, nên Chính phủ cũng phải chịu rằng: nếu không có cái chế độ lập ra bang, thì sự cai trị người Hoa kiều ở đây cũng là khó khăn lắm!

Người Tàu kiều ngụ ở ta rất đông, quyền lợi của họ cũng lớn, mà thường khi gặp sự gì ức uất, không có người bảo hộ cho, nên chi việc lập lãnh sự ở đây, cũng là một điều của người Tàu vẫn yêu cầu mãi.

Chính phép chung của vạn quốc, hễ dân một nước đến làm ăn buôn bán ở một nước nào, thì Chính phủ đó phái người đại biểu Chính phủ sang ở nước ấy, để bảo hộ cho dân mình, người ấy tức là lãnh sự. Không thí dụ đâu xa, ta thấy ngay ở trong nước mình, hai hải cảng thành phố Saigon và Hải phòng có bao lăm người Nhật, người Mỹ ở mà cũng có lãnh sự Nhật, lãnh sự Mỹ đến trú, v.v. thế mà dân Hoa kiều ở đây hàng mấy chục vạn người sao không có được một ông lãnh sự! Về việc này, tác giả thường hỏi ý kiến một vài người Hoa kiều thì họ nói rằng: “Chính phủ nước tôi, vẫn nhắc và yêu cầu việc ấy mãi mà người Pháp không nghe. Mỗi lần yêu cầu xin đặt lãnh sự, thì các quan Pháp lại đòi mấy nhà phú thương chúng tôi đến mà bảo rằng: “Nếu quả Chính phủ Tàu thật muốn phái lãnh sự đến đây, Chính phủ Pháp chỉ có việc chiếu theo lệ như những chỗ khác có đặt lãnh sự mà làm, thì người Tàu không được có của bất động sản như là nhà cửa đất cát nữa, nhất thiết những quyền lợi ấy, mà xưa nay người Hoa kiều có, thì bây giờ phải thủ tiêu đi hết”. Thế là người Pháp cố ý không muốn cho nước chúng tôi đặt lãnh sự vậy”.

Quả có đặt lãnh sự, thì Hoa kiều cũng có thiệt thòi về quyền lợi bất động sản và nhiều quyền lợi khác nữa thật, nhưng quỹ của Nhà nước cũng rỗng đi mất mấy chục triệu đồng bạc mỗi năm, thì lại là một sự thiệt thòi hơn nữa. Vả chăng nói cho cùng thì cũng là tại cái phương diện ngoại giao của người Tàu còn lép vế quá, thò ra giao thiệp ở đâu, là thất bại ở đó, chưa kể gì đến những việc năm Canh Tí, việc 21 điều, việc Giao Châu, là những việc to, thế nước Tàu yếu thì phải thất bại đã đành, nhưng đến ngay những việc ngoại giao nho nhỏ, cũng chẳng làm nổi. Ta xem ngay như người Tàu kiều cư ở bên Xiêm, đông đúc gấp mấy bên ta, phồn thịnh gấp mấy bên ta, mà Chính phủ Xiêm vẫn bắt buộc người Tàu hễ đã vào nước Xiêm, là phải theo phong tục và luật pháp Xiêm, lấy vợ Xiêm đẻ con, thì phải nhập tịch dân Xiêm hết, thuế má thì đánh rõ nặng, người Tàu kiều cư ở đấy vẫn yêu cầu đặt lãnh sự mãi, mà Chính phủ Xiêm nhất định không nghe, mới rồi lại còn đặt lệ mới bắt con cái người Tàu phải học chữ Xiêm nữa, bọn kiều dân đánh dây thép về xin Chính phủ Bắc Kinh can thiệp, và xin phái lãnh sự sang để bảo hộ cho, nhưng chắc Chính phủ Bắc Kinh cũng chẳng biết xử trí ra làm sao, vì cũng vô lực. Không nói chắc ai cũng biết rằng Chính phủ Xiêm mà không cho Hoa kiều bên ấy có lãnh sự, nghĩa là để mình được tự do đánh thuế nặng nề, thì sổ chi tiêu nhà nước được rộng, bắt buộc rằng người Tàu lấy vợ Xiêm đẻ con, tất phải nhập tịch Xiêm, thì số dân trong nước càng tăng thêm đông, vì cái lợi quyền cho dân cho nước mình, nên Chính phủ Xiêm từ chối việc đặt lãnh sự Tàu là thế. Đường đường một nước Tàu, yêu cầu nước Xiêm việc ấy còn không đắt, phương chi yêu cầu việc ấy với Chính phủ Pháp ở đây mà được hay sao? 

Kết thúc đoạn này, ta nên xét về cái vấn đề “lấy khách” đôi tí, để cho biết cái chế độ Minh Hương ngày nay, khác với cái chế độ Minh Hương ngày xưa.

Cái chế độ Minh Hương của ta ngày xưa thế nào, mà tác giả đã nói trong đoạn trước, thật là một cái chế độ hay; ấy ta cho bao nhiêu người Tàu vào doanh nghiệp trong nước ta, thì chỉ được có cái lợi Minh Hương là cái lợi cho ta vậy. Ta xem trong Nam kỳ, tỉnh Bạc Liêu và một phần tỉnh Sóc Trăng, người ở đấy nguyên là dòng dõi người Triều Châu ngày xưa cả. Dân cư ở ven bờ bể vịnh Xiêm La, khoảng giữa tỉnh Rạch Giá, tỉnh Hà Tiên, thì cũng là con cháu bọn nông dân Hải Nam ngày trước. Lại những người mình ở mấy tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, phần nhiều là nhận tổ tích ở những bọn người Tàu theo Mạc Cửu sang ta hồi thế kỷ thứ 18. Xem thế thì phía tây nam xứ Nam kỳ mà có cái vẻ sinh tụ như bây giờ, chưa chắc không phải nhờ có cái chế độ Minh Hương, nghĩa là bắt con người Tàu, đẻ ra bởi mẹ Annam, thì tất là dân Annam vậy.

Cái chế độ ấy ngày nay, dưới quyền bảo hộ người Pháp, thì không thế nữa. Người Tàu lấy vợ Annam, đẻ con ra thì có quyền tự do muốn cho nó theo quốc tịch mình hay là quốc tịch mẹ cũng được, tùy ở sức đóng thuế được đàng nào thì theo đàng ấy, đến như lễ nghĩa y phục thì cũng được tùy ý, không phải bắt buộc gì. Bởi thế ta thấy người mình lấy khách, may ai bợ được chú tài hay chủ hiệu giàu có phong lưu, đẻ con “ả beng” ra, thì là “các chú”, sau này lớn, mấy chục bạc, các chú cũng nộp thuế cho nó được, lại còn có thể đem nó về bên Tàu nữa, còn những người nào lấy phải các chú nghèo nàn khổ sở, thì con đẻ ra mới chịu vào tịch Minh Hương, chịu khó làm “ố nàm” vậy, nhưng được điều phải đóng thuế nhẹ thôi. Xem cái hiện trạng ngày nay, thì phần như ở trên nhiều, mà phần như ở dưới ít, vì các chú lấy sự cho con vào tịch Minh Hương, là nhục cho mình, là một sự bất đắc dĩ lắm, như thế thành ra các chú sang bên này, vơ vét tiền của của ta chẳng nói làm gì, lại còn lợi dụng đàn bà ta để lấy con, đến khi nặng túi bố giắt con về, để người mẹ bơ vơ ở bên này, đàn bà lấy khách ở nước mình, gặp nhiều cảnh đáng thương, ta đã từng thấy lắm, vậy thì chẳng phải các chú khôn mà ta dại, các chú lợi mà ta thiệt lắm ư?

Trong Nam kỳ đông người Tàu như thế, trừ ra mấy người giàu có mới đề huề vợ con ở Tàu sang, còn thì toàn hạng giai trẻ sang làm ăn rồi mới lấy vợ bên này, cho nên chị em trong Nam kỳ ta lấy khách nhiều lắm, thế mà kể đến người Minh Hương rất ít, tổng số chỉ độ 5 vạn người, mà số 5 vạn ấy, phần nhiều là cha truyền con nối, là người Minh Hương từ những đời nào, chớ không phải là mới đây mà được như thế, bây giờ thì ả beng phần rất đông theo quốc tịch của bố cả, trong hơn 20 vạn Hoa kiều, ta nên nhận biết rằng có đến 5, 6 vạn ả beng như thế vậy. Nếu 5, 6 vạn ấy bắt phải là Annam, thì ấy là cái lợi lấy khách của ta, nhưng 5, 6 vạn ấy vẫn là người Tàu, thì lâu dần các chú cũng về Tàu hết, ta lấy khách chỉ là “đẻ con thuê” hay sao?

Bởi vậy, có người bàn rằng: “Nhà nước lại nên thi hành cái chế độ Minh Hương của nước Annam ngày trước, bắt rằng: những đứa con đẻ ra do bố khách mẹ Annam, thì không được nhận là quốc tịch mình mà đem về Tàu, tất phải nuôi theo lễ nghĩa y phục Annam, phải chân chính là người dân Annam mới được. Làm thế, tuy so với quốc tế công pháp bây giờ có trái, nghĩa là bao giờ đứa con cũng phải theo quốc tịch cha, nhưng mà giá Nhà nước lấy lẽ rằng: bảo hộ xứ này thì cũng phải giữ lại những chế độ cũ của xứ này ít nhiều, thì tưởng không ai cho là không phải, mà người Tàu cũng không nói vào đâu được. Ví bằng bảo mới đời thứ nhất mà đã vội biến hóa người Tàu ra Annam ngay, là cấp tốc quá, thì đời thứ hai, phải bắt là người Annam cũng được”.

III

Tư bản của người Tàu trong Nam kỳ – Mấy ông vua tiền bạc. – Cái thế lực kim tiền của họ. 

Đại phàm trong trường kinh tế chiến tranh, quyết hơn thua với nhau, không cần gì có giáo sắc gươm dài, không cần gì phải có đạn to súng lớn, mà chỉ nhờ về một đội quân, gọi là đội quân “tư bản”. Người Tàu sang đất Nam kỳ mà làm được ông chủ trong trường công nghệ thương mại như ngày nay, toàn là nhờ sức của đội quân “tư bản” cả, cho nên ta đã biết người của họ là đông, ta cũng phải nên biết tư bản của họ là lớn nữa mới được.

Tư bản của họ ở đâu ra? Nói rằng: họ vẫn ở bên Tàu sang để buôn bán sinh lợi, thì cũng có thể, mà nói rằng: ấy là họ vơ vét được của ta, thì cũng chẳng phải là không. Lẽ trên cố nhiên, mà lẽ dưới càng là cố nhiên nữa, vì ai làm ra tiền thời nấy ăn, mình không thể nói được. Vả chăng, chủ ý đoạn này không phải cứu cái nguyên nhân rằng tư bản của họ ở đâu mà ra, chỉ xét đại khái xem tư bản của họ ít nhiều mạnh yếu thế nào mà thôi.

Ta xem ngay bản trình sổ chi thu các thuộc địa, mà ông Thượng nghị viên là Saint-Germain trình Thượng nghị viện từ năm 1906 về tư bản của các thuộc địa, thì mới biết rằng tư bản của người Tàu ở bên ta này to.

Trong tờ trình ấy, thì ông chia tư bản của xứ ta làm 3 thứ, trong có một thứ tư bản dùng để làm mọi công việc thuộc về canh nông, thương mại và công nghệ. Thứ tư bản này tới 223.914.816 frs. trong số đó người Pháp có 126.863.900 frs. còn 97.050.916 frs. là tư bản của người ngoại quốc. Ta nên nhận kỹ rằng gọi là tư bản của người ngoại quốc ấy, thì phần nhiều là của Hoa kiều.

Nếu đem số tư bản của người ngoại quốc mà tách bạch ra, thì những tư bản về việc canh nông không mấy, mà dùng vào việc công nghệ nhiều, đến như về công cuộc buôn bán, thì tư bản của ngoại quốc – ta nên nhớ luôn rằng Hoa kiều ở phần nhiều – hơn tư bản của người Pháp.

Bởi vậy cho nên trong 19.676.831 frs dùng vào việc canh nông, thì 13.201.575 frs. của người Pháp, mà người ngoại quốc chỉ có 6.475.256 frs. mà thôi. Đến như các cuộc kỹ nghệ, thì số tổng cộng là 96.408.535 frs. mà chia ra như sau này: tư bản của người Pháp 72.243.375 frs; tư bản của người ngoại quốc: 24.165.150 frs. Sau hết đến tư bản để buôn bán, tổng cộng lại là 107.829.460 fps, thì người Pháp chỉ có 41.418.950 frs. mà người ngoại quốc – số đông là Hoa kiều – có những 66.410.510 frs.

Giá bạc bấy giờ chỉ lên xuống từ 2f.50 đến 3f00, mà năm ấy đến năm nay, tuy xa cách gần 20 năm trời, thì tình thế e cũng có nhiều phần thay đổi, song le cái thực lực của Hoa kiều ở ta, so với mấy năm ấy về trước, thì phương diện nào là cũng hơn xưa, thế thì tư bản của họ bây giờ, có lẽ gấp mấy những ngày ấy nữa. Đây là nói chung về Hoa kiều ở nước ta, nhưng bể nào thì bao giờ Hoa kiều ở Nam kỳ cũng chiếm một phần lớn.

Kể sự giàu của năm bang Hoa kiều trong Nam kỳ, thì bang Phúc Kiến là hơn, mà bang Quảng Đông là thứ, còn các bang kia cũng chỉ tầm thường mà thôi. Có một người Tàu – người trong báo giới – đã xét đến cái tổng số tư bản của Hoa kiều, chưa kể đến các của bất động sản, như là nhà cửa đất cát, và vốn liếng các nhà máy gạo, các xưởng máy, các thương hội lớn, v.v. thì tính phòng, cứ bỏ rẻ mỗi người Hoakiều hơn bù kém có 300p.00 trong tay, nếu kể tất cả những cái trên kia, thì tư bản không kém gì 500 triệu, thế thì đủ biết tư bản của họ to là nhường nào?

Họ lập cả nhà ngân hàng nữa. Hiện nay, họ có hai nhà ngân hàng trong Nam kỳ, làm cơ quan tài chính của họ: một nhà Đông Á ngân hàng tư bản 500 vạn; hai là nhà Hoa thương ngân hàng tư bản 200 vạn. Kể cách sinh ý của hai ngân hàng này, không được đâu to lớn phát đạt như những nhà Đông Pháp ngân hàng (Banque de l’Indochine) và Quản lý Trung Hoa Thực nghiệp ngân hàng công ty (Société de Gérance de la Banque Industrielle de Chine) song vì cái lợi của họ mà họ tổ chức lên, và hoạt động với nhau, kể cũng đã có tư cách như mấy nhà ngân hàng Âu Mỹ lắm.

Các nhà ngân hàng có vốn như thế cũng cho là to, nhưng còn có những tay hào thương, trong tay có tư bản nhiều gấp mấy như thế nữa.

Trong bọn Hoa kiều bây giờ, duy chỉ có Hoàng Trọng Tán(1) là giàu nhất, tư bản có đến 3000 vạn, trong Nam kỳ đã suy tôn lên làm ông vua tiền bạc, hay là ông vua nhà cửa, vì Hoàng có nhiều nhà cửa đất cát lắm.

(1) Tục danh là Chú Hỏa, ngôi nhà của ông là ngôi biệt thự lớn có 99 cửa nằm trên một con phố đẹp nhất Sài Gòn, hiện là Bảo tàng mỹ thuật TPHCM. 

Hoàng vốn là người Phúc Kiến, xuất thân hàn vi, sang ở Saigon đã lâu, những khi còn độ 3, 4 xu một thước vuông đất, mà bây giờ đã lên tới 9, 10 đồng, Hoàng nhờ có cơ hội ấy, mua được nhiều đất cát, rồi làm nhà cửa cất lên từng dãy hai ba tầng liền khin khít đến 2, 3 chục cái một, những nhà ở phía chợ Bến Thành trong Saigon bây giờ, Hoàng có một phần chia ba, lại còn biết bao nhiêu là nhà ở trong Chợ Lớn, nhiều quá kể không xiết, chỉ biết rằng cứ tiền cho thuê nhà, Hoàng thu mỗi tháng đến hàng vạn bạc. Lại còn các tiệm cầm đồ ở hai thành phố Saigon và Chợ Lớn hầu hết là ở trong tay Hoàng lĩnh trưng. Nhà riêng của Hoàng ở Saigon, chỉ kém thua phủ Toàn quyền một ít mà thôi: ai ở chợ Bến Thành đi thẳng ra trông thấy một tòa nhà ba từng đột ngột, rộng rãi bao la, mới trông tưởng là công phủ chi của nhà nước, đó tức là cung điện của ông vua nhà cửa trong Nam kỳ là Hoàng Trọng Tấn vậy. Hoàng mỗi ngày một tậu đất cát, làm nhà cửa thêm, cho nên người Nam kỳ, ai cũng biết trước chỉ nay mai Hoàng sẽ có nửa phần thành phố Saigon và ba phần chia mười thành phố Chợ Lớn. Ôi! Giàu như thế thực đáng ghê thay.

Sau Hoàng thì còn Tạ Mã Diên cũng là người Phúc Kiến, giàu đến 1000 vạn.

Ngoài hai ông vua tiền bạc ấy ra, còn thì những tay có tài sản hàng 100 vạn, ước có 200 người; tài sản có 50 vạn, ước có 3, 4 trăm người; ấy đều là những tay cự phú, đến như những hạng có 5, 3 nghìn, 1 vạn đồng bạc trong tay thì thật nhan nhản, xe chở đấu đong không hết.

Ta đã biết họ giàu có như thế rồi, ta lại phải nên biết họ giàu có như thế, cho nên cái thế lực kim tiền của họ to lắm. Một vài người nào, từng giao tiếp với Hoa kiều nhiều, và chịu khó tò mò xem xét những cách hành động của họ, rất là kín đáo, thâm trầm, khôn ngoan, độc ác, hễ làm việc gì, không cứ gì là thương mại, công nghệ, trưng thầu, mua bán chí chí, đều lấy thế lực kim tiền mà dẫy hết cả. Thương mại đem kim tiền mà dẫy, thì không ai tranh nổi; công nghệ đem kim tiền ra dẫy; thì không ai tranh nổi; cho đến trưng thầu mua bán chí chí, đem kim tiền ra mà dẫy, thì cũng không ai tranh nổi; vì thế mà có việc đang xấu nên tốt, đang dở ra hay, đang nguy mà chuyển ngay ra thế an được. Ta đã từng nghiệm rằng: có thứ rượu của họ cất ra, ở trong do nước bùn nước rãnh chi không biết, mà ngoài dán giấy nói bổ huyết, bổ thận, mà uống chẳng có ích gì, nhưng được cái giấy chứng nhận hay, ấy là bởi thế lực kim tiền; có thứ thuốc của họ chế ra, đóng chai đóng lọ hẳn hoi, xưng rằng: thuốc bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ, mà uống mấy cũng chẳng thấy vần gì, nhưng có giấy chứng phân chất rằng thuốc hay, đăng phi lộ nói rằng thuốc hay, lại người đi cổ động miệng rằng thuốc hay, ấy cũng là bởi thế lực kim tiền. Xem một tờ Thời Báo trong Nam kỳ năm xưa cãi nhau về hiệu Nhị Thiên Đường xuất bản một quyển mục lục thuốc, thuê mỗi báo một người chủ bút làm cho một bài tựa là 50p. để lấp miệng không ai còn dám phản đối thuốc mình nữa. Ấy là cái thế lực kim tiền của họ như thế đấy! Lại một năm Chính phủ rục rịch tính lấy lại môn bài bán thuốc phiện của những người khách ở Nam kỳ để cho những vợ con người tùng chinh hồi Âu chiến mới rồi kiếm lợi, thế mà không biết họ lấy kim tiền vận động thế nào, rồi việc ấy lại im đi mất! Cho đến giá cả hàng hóa, ai mật báo với nhau họ cũng biết được, cũng là thế lực kim tiền, trưng thầu mua bán gì, mà thường họ vẫn được người, thì cũng là thế lực kim tiền cả. Họ vốn sẵn cái trí xem xét lợi hại rất là sáng suốt, cho nên họ thấy có việc lợi cho họ, mà tài tranh không lại, sức tranh không lại, thì vận động ngay bằng kim tiền. Việc của cá nhân, thì vận động bằng kim tiền cá nhân, việc của đoàn thể, thì vận động bằng kim tiền của đoàn thể. Họ biết rằng việc làm có lợi cho mình, thì không gì bằng quăng tiền ra mà vận động, vận động hết mấy cũng không tiếc gì, bởi họ lại biết rằng: mất đi ít mà thu lại nhiều vậy.

Tác giả xin đem mấy việc mà viện chứng. 

Năm 1919, trong Nam kỳ nổi lên cái phong trào “tẩy chay khách trú”, nguyên nhân chỉ tại có một tiệm cà phê kia bán tăng giá hai xu lên ba xu, mà gây nên lòng công phần của người mình, rủ nhau trước thì Saigon, Chợ Lớn, rồi đến Lục tỉnh, trong mấy hôm mà cả ngoài ta, mấy chỗ to như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, v.v. đâu đâu cũng hưởng ứng như chớp, ai nấy đều biểu đồng tình để tẩy chay khách trú rất là hăng hái, đến nỗi phố xá đông như kiến, học trò bỏ nhà trường, chỗ kia hô hào, chỗ này diễn thuyết, khách trú – thứ nhất là ở trong Nam kỳ – đã lấy làm lo lắng lắm, tưởng chừng như trong trường thương chiến, ta đánh lui ngay được họ, không ai ngờ như nồi nước nóng đang sôi sùng sục thế này, phút chốc nguội ngắt như đá, thôi thế là việc hỏng bét… Ta có biết rằng việc hỏng bởi đâu không? Bởi người mình không kiên nhẫn đồng tâm đã đành, mà phần nhiều tại khách trú vận động riết lắm. Họ vận động bằng gì? Ấy, cũng bằng thế lực kim tiền.

Tác giả có nghe người bạn trong Nam kỳ, hồi có việc này cũng là người chủ động, thuật truyện lại rằng: “Giữa hồi tẩy chay, khách nó dụ tôi, bỏ ra cho tôi 6.000$ để tôi xuất bản một tờ báo quốc ngữ trong 6 tháng” – “Thế sao không làm?” – “Vì nó định thuê tôi chửi lại Annam, tôi nào đang tâm như thế.” Một việc ấy đủ chứng rằng đồng tiền họ to, mà thủ đoạn họ độc rồi. Giữa lúc ấy họ lại lập ngay ra mấy tờ báo nữa, thoạt tiên là “Nam kỳ Hoa kiều Nhật báo” để nói xa xôi người mình, bây giờ báo ấy vẫn còn, chuyển thành một cơ quan mạnh cho việc buôn bán. Sau đấy lại có tờ báo viết bằng chữ Pháp, là báo “clair”, nhưng không bao lâu thì đổ. Nhưng cái đó đều là thường, ta không đủ sợ, chỉ đáng sợ nhất là trong lúc phong trào đang ầm ầm, mà họ tìm được một cách giải vây diệu nhất, là tiền, chỉ gọi có mấy tiếng trong mấy ngày, gom góp được mấy chục vạn bạc, rồi mấy chục vạn bạc ấy, họ khiêng vào đâu không biết… trong mấy ngày nữa thì việc tẩy chay của “Ở nam” đi đời, tựa như có cái sức mạnh gì, khiến mình phải im đi, thế là hết chuyện.

Lại mới rồi ở Saigon có cái việc “độc quyền cửa bể Saigon Chợ Lớn” “Monopole du Port Saigon Chợ Lớn” xảy ra, đại khái là sự chuyên chở vận tải ở cửa bể Saigon Chợ Lớn, xưa nay là của linh tinh từng người, nay định đem quy vào một hội riêng, gọi là hội “Candelier” có độc quyền chuyên chở ở đấy mà thôi, như thế không những gì là người mình có thiệt, mà thứ nhất là nghề buôn gạo, nghề chuyên chở của Hoa kiều bị thiệt hại lắm, cho nên họ lại rắc tiền ra mà vận động phá ngầm, lợi cho họ mà lợi cả cho ta, tuy thế cũng nên hiểu rằng cái thế lực đồng tiền của họ là mạnh đến thế. Năm ngoái lại có một việc nữa cũng đủ chứng tỏ cái thế lực đồng tiền của họ to, là có một chú ở Chợ Lớn – tiếc thay quên mất tên(1) – bỏ ra cho chính phủ mấy chục vạn bạc và một khu đất của va ở Bình Đông (gần Chợ Lớn) yêu cầu Chính phủ đem cái chợ ở giữa thành phố Chợ Lớn ra Bình Đông, mà va chỉ lấy một quyền lợi cất nhà ở khu đất chợ cũ kia, để cho các tiệm thuê mà thôi.

(1) Tức Quách Đàm (1863 – 1926) xuất thân nghèo khổ, thuở nhỏ lang thang Sài Gòn – Chợ Lớn với gánh ve chai lông vịt. Sau giàu lớn mua một khu đất ở Bình Đồng tặng soái phủ Nam Kì cất chợ Bình Tây (hay chợ Quách Đàm) với điều kiện chính phủ cho phép ông ta cất nhà cho thuê quanh chợ (NBS) 

Ấy là kể mấy việc to, còn những việc nhỏ mà họ cũng lấy kim tiền vận động, thật lắm cách độc ác gớm ghê, ta đã từng thấy, mà cũng có việc kín đáo lắm, ta không thể hiểu rõ được. Ta chỉ nên nhớ kỹ rằng: đối phó với Hoa kiều, một cái sức kim tiền của họ, đủ làm cho ta phải đảo điên liểng xiểng vậy.