Động phòng hoa chúc phiên âm từ tiếng Hán 洞房花燭, là thành ngữ bắt nguồn từ một câu chuyện thời nhà Tần (221 TCN – 206 TCN) liên quan đến cung A Phòng(1) nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Tương truyền sau khi xây dựng xong cung A Phòng, Tần Thủy Hoàng đã cho bức tuyển hàng vạn mỹ nữ trong thiên hạ để đưa vào đây. Tam Cô Nương là một cô gái xinh đẹp trong số hàng vạn mỹ nữ đó.
Do không chịu nổi cảnh tù hãm, nhục nhã nên cô đã bỏ trốn khỏi cung, chạy đến núi Hoa Sơn. Tại đây, nàng đã gặp chàng trai nghèo tên là Thẩm Bác cũng chạy trốn đến đây. Sau đó, họ phải lòng nhau và kết tóc se duyên. Nhưng vì không có nhà cửa và chốn nương thân nên họ đã dùng hang động dưới ngọn núi làm nơi ở mới, sống bên nhau. Đêm đầu tiên ăn ở với nhau cũng ở cái hang động ấy. Về sau, người ta gọi chỗ ở mới của họ là Động phòng (洞房).
Theo Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh, chữ động 洞 nghĩa là cái hang núi, lỗ hổng. Như vậy động phòng (洞房) nghĩa là phòng trong hang núi, hoàn toàn phù hợp với tình cảnh khi đó của Tam Cô Nương và Thẩm Bác. Sau này động phòng được hiểu thành phòng cưới, tức là phòng của đêm tân hôn để cô dâu chú rể nằm ngủ với nhau lần đầu tiên sau đám cưới.
Còn chữ chúc 燭 nghĩa là đuốc. Hoa chúc nghĩa là đuốc hoa. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã dùng từ đuốc hoa là dịch sát nghĩa của từ hoa chúc khi tả lại đêm ân ái đầu tiên giữa Thúy Kiều và Mã Giám Sinh và hành động cục súc, thô bỉ của hắn:
Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương
Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó mặc nàng còn trơ (câu 845 đến 850)
Thời cổ Trung Quốc, người ta dùng nứa hay cỏ khô kết lại thành bó để đốt sáng khi đi đêm. Cổ thi có câu: Trú đoản khổ dạ trường, hà bất bỉnh chúc dạ du? – 晝短苦夜長,何不秉燭遊 (nghĩa là ngày ngắn khổ đêm dài, sao chẳng đốt đuốc chơi?). Trong bài Xuân Dạ Yến Đào Lý Viên Tự – 春夜宴桃李園序 (Đêm xuân uống rượu trong vườn đào mận), thi hào Lý Bạch có câu “cổ nhân bỉnh chúc dạ du” – 古人秉燭夜遊 (nghĩa là người xưa cầm đuốc chơi đêm) là để nói về tục này.
Bó đuốc chưa đốt gọi là “tiêu”. Ðuốc đốt lên cầm tay gọi là “chúc”. Ðuốc lớn đóng cọc xuống đất mà đốt gọi là “đình liệu”. Theo tục lệ đời nhà Chu, khi đầu canh năm, vua sắp ra triều thì ở trước điện đình bày hai hàng đèn bằng đuốc hoặc bằng sáp, để rọi đường cho các quan vào triều.
Sách “Mộng lương lục” đời Tống chép: “cô dâu xuống xe, mấy con hát cầm đuốc làm hình cánh hoa sen đi trước đưa đường”. Như vậy, bó đuốc để đi đưa dâu hay rước dâu có kết hoa bên ngoài cho đẹp vì tục lệ Trung Quốc trước kia là rước dâu vào chập tối.
Trong Truyện Kiều, khi tả quan Phủ truyền tổ chức lễ thành hôn cho Kiều và Thúc Sinh, Nguyễn Du đã viết:
Kíp truyền sắm sửa lễ công
Kiệu hoa cất gió đuốc hồng ruổi sao (Câu 1465 và 1466)
tức là đốt đuốc để đi (đi mau) đêm dưới trời đầy sao.
Sách “Quy điền lục” của Âu Dương Tu(2) đời Bắc Tống có chép: “ở Ðặng Châu có thứ hoa lạp chúc (tức nến làm bằng sáp hoa – Wang Nguyễn) nổi tiếng trong nước, ngay kinh đô cũng không chế nổi”.
Như vậy, đến thời cận kim, người Trung Hoa đều hiểu chúc là nến, chứ không hiểu là đuốc như thời cổ. Và như vậy đuốc hoa (tức hoa chúc) là từ dùng để chỉ ngọn nến đốt trong phòng của đôi vợ chồng mới cưới.
Để chỉ hai trong số bốn niềm vui mừng (tứ hỉ) của đời người con trai/đàn ông, gồm thi đỗ (đại đăng khoa) và cưới vợ (tiểu đăng khoa), Ấu Học Ngũ Ngôn Thi (幼學五言詩) có chép hai câu thơ sau:
Ðộng phòng hoa chúc dạ (洞房花燭夜)
Kim bảng quải danh thì (金榜掛名時)
Nghĩa là: Động phòng đêm hoa chúc
Bảng vàng thi đỗ cao
Tại sao từ “động phòng” thường đi đôi với từ “hoa chúc” và gắn liền với ý nghĩa là đêm tân hôn? Chính là xuất xứ từ hai câu thơ trong bài “Tam Hòa Vịnh Vũ Thi” của Dũ Tín thời Nam Bắc triều:
Ðộng phòng hoa chúc minh (洞房花烛明)
Vũ như ong yến khinh (舞馀双燕轻)
Nghĩa là: Phòng sâu đuốc hoa sáng
Ðôi én múa dịu dàng
Như vậy, “đuốc hoa” (hoa chúc) đã được phổ thông để chỉ cặp nến trong phòng đặc biệt của đôi vợ chồng mới (tân lang và tân nương) đêm tân hôn.
Theo cổ tục hôn lễ Trung Hoa, đêm động phòng, cặp nến được kết hoa này (tức hoa chúc) phải giữ làm sao được cháy sáng song hành với nhau, tức là cùng thắp sáng và cùng tàn lụi một lần. Có như thế thì vợ chồng mới bách niên giai lão, không phải sống cảnh người chết trước kẻ chết sau. Ngoài ra, sáp đèn cầy cũng không được tan chảy dễ dàng nhễu xuống như những giọt buồn bã phân ly.
Chú thích
(1) A Phòng nguyên là tên một hòn núi, nhân lấy để đặt tên cung, tại Hàm Dương. Cung này do vua Tần Thủy Hoàng dựng lên, dài hơn 100 thước, rộng 50 thước, lâu đài liên tiếp, cứ 5 bước 1 cái lâu, 10 bước 1 cái các, có thể chứa được 10 nghìn người. Cung nữ đông đến 3-4 nghìn người, nhiều người ở trong cung đến 36 năm chưa từng thấy mặt trời. Tiền để kiến trúc, xây dựng lên đến mấy trăm nghìn vạn. Về sau cung A Phòng bị Hạng Vũ đốt, lửa cháy đến 3 tháng mới tắt.
(2) Âu Dương Tu (歐陽修) sinh năm 1007, mất năm 1072, có tên tự là Vĩnh Thúc hiệu “Tuý Ông” là nhà thơ thời Tống ở Trung Quốc. Quê Âu Dương Tu ở Lư Lăng (nay thuộc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc). Năm 1030 đỗ đầu khoa thi tiến sĩ; từng giữ các chức quan Hàn lâm học sĩ, Xu mật viện phó sứ, Tham tri chính sự… Dưới thời vua Tống Thần Tông làm Binh bộ Thượng Thư, khi mất được đặt tên thụy là Văn Trung.
Âu Dương Tu là một nhà văn nổi tiếng, một nhà thơ lớn, một nhà sử học, chính trị gia và đồng thời là một nhà làm Từ xuất sắc. Ông là người khai sáng ra thể loại “thi thoại” (bình luận và ghi chép lại các cuộc bàn luận của các thi nhân,…), cuốn “Lục Nhất thi thoại” là cuốn thi thoại đầu tiên của Trung Quốc. Ông còn viết những bài rất nổi tiếng như Tuý Ông đình kí, Mai Thánh Du thi tập tự, Thu thanh phú, Bằng đảng luận. Vì thế, Âu Dương Tu tự xưng mình là “Lục nhất cư sĩ” (cư sĩ với 6 cái “một”: một vạn quyển sách, một ngàn thạch văn, một cây đàn, một bàn cờ, một bầu rượu và một thân già).