Người ta chỉ cần hai năm để học nói, nhưng lại cần tới vài chục năm để biết cách ứng xử. Nói chuyện là nghệ thuật – Quan niệm này vẫn đúng từ xưa cho đến nay.
Chẳng hay bạn có chú ý hay không, chỉ một vài lời nói đơn giản thôi đã có thể khiến cho một người hoàn toàn phật ý, lại cũng có thể khiến một người vui vẻ đến tận mấy ngày. Dưới đây xin kể ba câu chuyện của người xưa về nghệ thuật ứng xử:
1. Khéo léo hóa giải mối bất hòa
Văn nhân Thôi Ưng bản tính thẳng thắn, tiết độ sứ Trương Kiến Phong thường tán thưởng tài ba của ông, đã mời ông làm phụ tá. Thôi Ưng sau khi đi theo Trương Kiến Phong, thường sống trong quân doanh. Một đêm nọ, Thôi Ưng đột nhiên lớn tiếng la hét, làm kinh động binh lính. Quân sĩ đều vô cùng phẫn nộ, đòi giết Thôi Ưng, Trương Kiến Phong đành phải đem ông giam lại.
Hôm sau thiết yến, vị giám quân nói với Trương Kiến Phong: “Tôi và ngài sẽ có một giao ước, hai bên không thể làm trái”. Trương Kiến Phong nói: “Được”.
Giám quân nói: “Tôi có một thỉnh cầu, tôi muốn được gặp mặt Thôi Ưng”. Trương Kiến Phong đáp: “Sẽ y theo lời giao ước”.
Ngừng một lúc, Trương Kiến Phong lại nói: “Ta cũng có một thỉnh cầu”. Vì vừa được thỏa mãn nguyện vọng, giám quân vội đáp ngay: “Được”.
Trương Kiến Phong từ từ nói: “Ta không chấp nhận cho mời Thôi Ưng”.
Nghe xong, mọi người xung quanh đều bật cười.
Cuộc đối thoại của Trương Kiến Phong và giám quân có vẻ như đơn giản dễ hiểu, thế nhưng lại hàm chứa rất nhiều nghệ thuật. Trong quân doanh phải nghiêm túc tuân thủ quân pháp, nhưng Thôi Ưng lại làm ồn vào giữa đêm, có thể gây sự chú ý cho kẻ địch hoặc làm loạn trong chính quân doanh. Vì thế, binh sĩ tức giận cũng là lẽ tự nhiên.
Khi giám quân muốn Trương Kiến Phong thả Thôi Ưng ra, nếu Trương Kiến Phong thuận theo thì binh lính sẽ không phục, nhưng bản thân Trương Kiến Phong cũng muốn thả Thôi Ưng. Chính vì thế, ông đã biến câu chuyện thành một màn hài hước gây cười, có thể hóa giải hiềm khích của những người trong doanh trại. Sau sự việc này, Thôi Ưng cũng tránh được việc bị trừng phạt.
2. Một câu nói khiến cả triều khâm phục
Ngày xưa, khi trả lời hoàng đế, quan lại luôn phải hết sức cẩn thận để tránh chọc giận thiên tử, người mang quyền sinh sát trong tay. Chỉ một câu nói với hoàng đế có thể sẽ liên quan tới số phận của cả một gia đình, dòng họ. Vì thế những trung thần dám nói thẳng với hoàng đế luôn được kính phục, sùng bái.
Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm khi đăng ngôi hoàng đế, muốn coi bói xem ngôi hoàng đế này sẽ được truyền đến bao đời, kết quả là chỉ có một chữ “Nhất” (một). Vũ Đế rất không vui, quần thần đều sợ hãi mặt tái xanh, không ai dám nói câu gì. Đúng lúc đó, Thị trung Bùi Khai đã tiến lên trước và nói: “Vi thần nghe nói, trời có một sẽ thanh minh, đất có một sẽ an bình, hầu vương có một sẽ có được sự ủng hộ trung thành của quần dân”. Chỉ một câu nói ngắn gọn như vậy đã khiến Vũ Đế từ lo lắng chuyển sang vui mừng, quần thần từ đáy lòng đều cảm phục Bùi Khai.
Năm 290, Tấn Vũ Đế qua đời, hưởng thọ 54 tuổi, được truy tôn miếu hiệu là Thế Tổ, thụy hiệu là Vũ hoàng đế. Mặc dù lúc đầu Tấn Vũ Đế là một vị vua anh minh, nhưng cuối đời ông lại sa vào tửu sắc, tham lam vô độ. Ngay sau cái chết của ông, nhà Tấn bắt đầu suy yếu vì người kế vị là Huệ Đế không điều hành nổi triều đình. Trong khi đó, Giả thị hoàng hậu giết đại thần, nắm đại quyền, lại làm các việc dâm loạn, khiến các hoàng thân đồng loạt nổi lên làm loạn. Từ đó dẫn đến loạn Bát Vương và loạn Ngũ Hồ, đưa tới sự diệt vong của nhà Tây Tấn, tất cả chỉ khoảng 26 năm sau khi Vũ Đế mất.
Có thể nói, quẻ bói không hề sai, nhưng Bùi Khai đã tránh cho các triều thần khỏi một phen lao đao hứng lửa giận của Tấn Vũ Đế.
3. Dân chúng đều biết, hoàng đế không hay
Trong “Đường quốc sử bổ – Quyển thượng” có ghi chép một câu chuyện rất thú vị như sau:
Sau khi Đường Đức Tông giáng chức gian tướng Lư Kỷ thì luôn nghĩ đến ông ta. Sau đó, Đức Tông lại muốn đề bạt Lư Kỷ, khiến các quan cảm thấy lo sợ, lần lượt đến khuyên nhủ hoàng đế.
Đức Tông hỏi Lý Quát: “Lư Kỷ có gì nham hiểm chứ?”
Lý Quát bèn trả lời: “Thiên hạ đều cho rằng ông ta gian tà, mà bệ hạ lại không hay biết, đây chính là sự nham hiểm của Lư Kỷ.”
Câu trả lời của Lý Quát có vẻ như rất đơn giản, nhưng thực tế lại vô cùng khéo léo. Ông tránh không đưa ra nhận định của bản thân, không liệt kê những tội lỗi hay sự xảo quyệt của Lư Kỷ, để tránh cho hoàng đế khó chịu. Ông lại đứng trên lập trường của “thiên hạ”, của người dân, mà lấy lời khuyên can thiên tử, hàm ý rằng từ xưa tới nay người đời luôn có thể phân biệt rõ chính thần và gian thần. Điều này đã cảnh tỉnh Đức Tông rằng sự sủng ái Lư Kỷ đã khiến hoàng đế mờ mắt, không phân biệt được trung và gian nữa.
“Dân chúng đều biết, hoàng đế không hay”, điều này thật sự là việc mà thiên tử không thể không quan tâm đến.
Ngày nay, mặc dù người ta không có sức ép “đứng trước thiên tử” như xưa nữa, nhưng khi nói chuyện vẫn luôn phải chú ý lịch sự, khéo léo ứng xử. Dù sao thì một lời nói ra cũng thể hiện được mức độ tư duy và trình độ của bản thân. Nói chuyện thật sự là một môn nghệ thuật, không thể không thận trọng, không thể không học hỏi.
Thanh Trúc