Ngày Tết Việt Nam ta có nhiều phong tục, chúng ta cần biết để tránh những hủ tục, là những tục thuộc về mê tín dị đoan.

Nước ta là nước nông nghiệp, nên lịch năm theo Âm lịch chia thanh 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, lại phân chia thêm có hai mươi bốn tiết trong năm  là lập xuân 立春, vũ thủy 雨水, kinh trập 驚蟄, xuân phân 春分, … Lại có những ngày đặc biệt như nguyên đán tiết 元旦節 tiết nguyên đán, thanh minh tiết 清明節 tiết thanh minh, trung thu tiết 中秋節 tiết trung thu… Nguyên có nghĩa là khởi đầu, đán là buổi sáng sớm, tiết nguyên đán là buổi sáng sớm khởi đầu của năm, chữ tiết ấy đã biến âm thành Tết Nguyên Đán, đơn giản hơn chỉ nói là Tết, tức là ngày đầu năm.

Ai cũng mong ước trong năm mới nhà mình mọi người được ấn no hạnh phúc, tránh được những họa do thiên tai, tật bệnh do ma quỷ làm ra, tưởng nhớ tới tổ tiên cha mẹ đã mất, nên nhà nhà đều chuẩn bị đón Tết, trong bài này chúng tôi muốn nói riêng đến phong tục Tết ở trong miền Nam đất Việt.

Sự chuẩn bị đến trước tiên là vào ngày 23 tháng Chạp, người ta cúng đưa ông táo về trời và dọn dẹp, sửa sang mồ mả.

Về cúng ông Táo theo truyện cổ tích sau đây:

Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin.

Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.

Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo.

Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.

Ngọc Hoàng cảm động trước mối chân tình của cả ba người, (2 ông, 1 bà), và cũng cảm thương cái chết trong lửa nóng của họ, ngài cho phép họ được ở bên nhau mãi mãi bèn cho ba người hóa thành “ba đầu rau” hay “chiếc kiềng 3 chân” ở nơi nhà bếp của người Việt ngày xưa. Từ đó, ba người ấy được phong chức Táo Quân, trông coi và giữ lửa cho mọi gia đình, đồng thời có nhiệm vụ trông nom mọi việc lành dữ, phẩm hạnh của con người. Táo Quân, còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ cho cuộc sống gia đình, thường được thờ ở nơi nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Vào ngày 23 tháng chạp Táo quan cỡi cá chép về Thiên đình, báo cáo mọi việc lành dữ trong gia đạo cho Ngọc Hoàng rõ, để định việc tội phước trong năm qua.

Về thời gian trong ngày, người ta tin tưởng buổi sáng thuộc về tiên, trưa thuộc về Phật, buổi chiều thuộc về cõi âm, cho nên trưa ngày 23 người ta cúng mâm cơm canh, hoa, quả trên bàn thờ ông bà cũng như bàn thờ ông Táo, nếu không có bàn thờ ông Táo riêng, người ta dọn lễ vật cúng ông Táo gần chỗ bếp. Thay vì dĩa quả, người ta lại cúng Thèo lèo. Có khi vì ngày mùa giáp Tết bận rộn, nhiều nhà không có thì giờ nấu nướng họ chỉ cúng, hoa và Thèo lèo. Cúng xong người đốt giấy áo, mão, cá chép và vàng bạc.

Táo quan chỉ có áo mão mà không có quần, có người giải thích vì tục này của người Việt đã lâu đời, người Việt xưa không có mặc quần, đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy, quần là văn hóa của người Trung Hoa. Chúng ta thấy rõ, những dân tộc thiểu số Việt Nam, đàn bà đều mặc váy, kể cả người Chăm, người Thượng ở Cao nguyên và người Việt vùng Thượng du Bắc Việt.

Tôi thấy một bài văn cúng Táo quan trên Mạng, có lẽ là mới sáng tác, xin chép ra đây:

Bài văn khấn cúng ngày 23 tháng Chạp (ông Táo về trời)

(Nam mô A di đà Phật)
Nay nhân ngày 23 tháng Chạp
Lòng chúng con dào dạt mênh mông
Toàn gia quyết dốc một lòng
Sắm lễ mọn dâng lên dinh tọa
Đã nhất tâm một lòng một dạ
Thắp hương thơm lễ tạ chư thần
Đông trù tư mệnh. Táo phủ thần quân
Ngài là chủ ngũ tại chư thần xét soi
Người trần phạm tục phạm sai
Cúi nhận lỗi các ngài gia ân
Ban lộc ban phước ban phần
Công bằng hợp lý mười phân vẹn mười
Hôm nay ngài sắp về trời
Lòng con tâm niệm vài cầu xin
Cầu cho trăm họ bình yên
Cầu cho gia sự ấm êm thuận hòa
Xanh như lá, đẹp như hoa
Bước sang xuân mới trẻ già yên vui
(Họ tên… số nhà… đường phố)
Cùng nhất tâm cẩn cáo
Nam mô A di đà Phật 
(Khấn xong 3 lần rồi đốt vàng. Nếu cúng cá chép sống thì đem thả ra sông)

Cũng trong ngày này, cho đến ngày 28 tháng Chạp mọi người phải sửa sang, dọn dẹp cỏ rác xung quanh mồ mả thân nhân của mình, nấm mộ đất người ta phải dùng cái chéc giẫy cỏ trên nấm mộ và xung quanh, nếu mộ xây gạch, đá, xi măng, người ta cũng quét dọn, chùi rửa hoặc quét vôi mới.

Có những ngôi mộ lâu đời, con cháu không có hoặc không biết, không có người chăm sóc, có những người đi làm thí công. Cho nên ai có mồ mả ông bà đều phải lo làm cho xong trước ngày 28, để tránh người ta làm thí công, con cháu  bị mang tai tiếng. Còn việc sửa sang mộ, người ta thường làm trong Lễ Thanh Minh.

Ngày 30 Tết (tháng thiếu 29), từ trong nhà ra cho tới ngoài sân, ngoài đường đi, người ta quét dọn sạch sẽ, chuẩn bị đón Tết. Dán ở trước cổng một đôi liễn chữ nho giấy hồng đơn, mực Tàu đen, nhà không có cổng người ta dán vào cột hàng ba trước nhà, chẳng hạn như cặp liễn, một câu đối Tết chữ Nho:

春 入 春 天 春 不 老
Xuân nhập xuân thiên xuân bất lão

愊 臨 福 地 福 無 疆
Phúc lâm phúc địa phúc vô cương

Nghĩa:

Xuân nhập trời xuân chẳng lão
Phúc vào đất phúc phúc vô biên.

Chúng ta thường nghe câu đối Nôm về ngày Tết như:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. 

Hoặc câu đối:

Tối Ba Mươi, đạp thằng Bần ra cửa,

Sáng Mồng Một, rước ông Phúc vào nhà.

Cùng ý đó:

Chiều Ba Mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.

Sáng Mồng Một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.

Văn chương, nghĩa lý hơn:

Tối Ba Mươi, khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới,

Sáng Mồng Một, lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân về.

Người Nam, món ăn chánh yếu trong ba ngày Tết là nồi thịt kho, dưa giá, bánh thì có bánh tét, bánh phồng, mứt dừa, mứt bí. Trái cây thì có dưa hấu, quít, bưởi. Những thức ăn và bánh trái chuẩn bị cho ba ngày Tết là Mồng Một, Mồng Hai và Mồng Ba.

Trên bàn thờ, người ta đánh bóng bộ lư đồng, lau chùi chân đèn, ống khói, lư hương. Nhà giàu trên bàn thờ có tranh sơn thủy vẽ trên khung kính, hay khung vải, nhà nghèo mua tranh giấy thay cho bức tranh cũ.

Cũng trên bàn thờ nhất thiết phải có bình hoa, nhà giàu có hoa Lay-dơn, thường thì chưng hoa hoa mai hay vạn thọ vàng, hai dĩa trái cây hoặc một dĩa ngũ quả và một dĩa bánh tét.

Về cách chưng hoa quả, người ta có câu “Đông bình, Tây quả”, nhà chúng ta xây cất quay mặt bất kể là về hướng nào, theo quy ước hướng đó là hướng Nam, như vậy khi đặt bàn thờ giữa nhà, nhìn thẳng ra cửa thì bên tay phải của ta là hướng Đông, đặt bình hoa, bên tay trái là hướng Tây đặt dĩa trái cây.

Dĩa ngũ quả là theo thuyết âm dương ngũ hành gồm có 5 thứ: Mộc (cây), Hỏa (lửa), Thổ (đất), Kim (kim loại), Thủy (nước) theo thứ tự, tương ứng với hướng  Đông, Nam, Trung ương, Tây, Bắc  về màu sắc tương ứng với Xanh lục, Đỏ, Vàng, Trắng/Da cam, Đen/xanh dương về mùa tương ứng Xuân, Hạ, chuyển mùa cứ 3 tháng, Thu, Đông về trái cây tương ứng với Mận, Mơ, Táo Tàu, Đào, Hạt dẻ về ngũ cốc, tương ứng với Lúa mì, Đậu, Gạo, Ngô, Hạt kê.

Do vậy người ta chọn 5 thứ trái cây trên là Mận, Mơ, Táo Tàu, Đào, Hạt dẻ hoặc trái cây có 5 màu như trên, biểu tượng cho ngũ hành hòa hợp sinh ra mọi điều tốt đẹp, như mưa thuận gió hòa thì được mùa, đất nước hưng thịnh thanh bình. Trái cây màu xanh lục có chuối sứ (kỵ không bao giờ cúng chuối già: tục), màu đỏ có trái điều, màu vàng có trái Phật thủ hay bưởi, cam, quít, màu trắng có mận, màu đen hay xanh dương có dưa hấu.

Do đó dĩa ngũ quả của người miền Nam, thường là ở dưới một hay hai nải chuối, giữa một trái dưa hấu (da màu xanh dương), xung quanh dưa hấu trên nải chuối là những trái quýt, trái điều và mận trắng.

Có nhiều người không rõ về ngũ quả, thấy người ta chưng dĩa trái cây rồi cũng chưng theo với những thứ dễ có trong mùa Tết như chuối, dưa hấu, quýt, mận. Có người thêm chùm trái sung, với nghĩa trái sung là sung túc. Từ đó, chừng 50 năm trở lại đây, từ trái sung nghĩa là sung túc, ngưòi ta biến cải ra chưng trái mãng cầu, trái dừa, trái đu đủ, trái xoài cho rằng dĩa trái cây diễn đạt ước mong: “Cầu vừa đủ xài!” Cho nên trên một DVD có ban kịch chưng cúng trái mãng cầu, trái xoài, trái đu đủ, cái líp xe đạp, cái ba-ga xe đạp, được giải thích là “Cầu cho đủ xài líp ba-ga!”

Ở bàn tiếp khách, để một bình trà, xưa để trong cái vỏ bình là trái dừa khô, một bình hoa cắm cành mai vàng, một khai trầu, một hộp thuốc vấn, một dĩa bánh, mứt.

Chiều 30 Tết, người ta dựng Cây Nêu ở Đình, Chùa hay trong sân trước nhà. Cây nêu là nét văn hóa của Việt Nam, phổ biến khắp ba miền đất nước, ăn sâu vào nếp sống dân tộc, nên Ca dao có câu:

Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Mong cho đến Tết dựng Nêu ăn chè.

Theo sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ ghi: “bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là “lên nêu”… có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ”.

Chuyện kể rằng, ngày trước ruộng đất đều thuộc quyền sở hữu của loài quỷ. Loài người phải ăn nhờ ở đậu trên đất đai của quỷ nên hằng năm phải cống nạp thuế cho chúng. Lũ quỷ vô cùng hiểm độc, chúng bày lắm mưu nhiều kế hòng chiếm đoạt công sức lao động của con người. Số thuế phải nộp ngày càng gia tăng thêm, chúng tác oai tác quái để làm khổ cho con người. Chúng đặt ra những điều lệ hết sức vô lý, dùng bạo lực buộc con người phải tuân thủ điều lệ “ăn ngọn cho gốc” (nghĩa là chúng lấy phần ngọn còn phần gốc để lại cho người). Thế là sau vụ lúa năm ấy, mọi người đành chịu đói khổ, ngậm ngùi nhìn lũ quỷ đánh chén no nê.

Thấy cảnh tượng đói khổ của con người, đức Phật động mối từ tâm, hiện đến để cứu giúp người dân thoát khỏi sự hà hiếp của lũ quỷ. Ban đầu đức Phật dạy người trồng khoai lang, đến mùa thu hoạch, cứ theo quy định đã đưa ra, lũ quỷ lấy phần ngọn còn phần gốc là của con người. Thế là người dân được một mùa bội thu, còn lũ quỷ ngán ngẫm nhìn đống dây và lá khoai khô héo. Sau đó chúng lại đổi điều lệ thành “ăn gốc cho ngọn”. Đức Phật dạy người dân chuyển trồng khoai sang trồng lúa. Cuối mùa, lũ quỷ lại một phen ngậm ngùi cay đắng. Lần này, chúng lại đặt ra điều lệ mới là “ăn cả ngọn lẫn gốc”. Lũ quỷ tưởng rằng như thế là chúng nắm chắc được phần lợi trong tay, nhưng đức Phật đã dạy con người trồng ngô. Vụ mùa đến, người dân thu hoạch ngô đem về nhà, còn lũ quỷ thì lại bị một vố chua cay, tức tối. Cuối cùng lũ quỷ tức giận thu hồi lại cả đất đai, không cho con người thuê đất nữa, chúng thà không có gì chứ không chịu cho loài người ăn một mình. Trước tình hình đó, đức Phật bảo người dân đến điều đình với quỷ cho tậu một miếng đất bằng tấm áo cà sa. Nghĩa là con người sẽ trồng một cây tre, trên ngọn tre chỉ treo một tấm áo cà sa, bóng của cà sa phủ được bao nhiêu diện tích ở mặt đất thì số đất đó là đất của con người sử dụng. Ban đầu quỷ không chấp thuận, nhưng sau chúng nó suy tính thấy bóng của một chiếc áo cà sa chẳng bao nhiêu bèn nhận lời. Khi người dân trồng xong cây tre, đức Phật đứng trên ngọn tre tung chiếc áo cà sa ra, cây tre càng lúc càng cao, áo cà sa càng lúc càng rộng, bóng của áo cà sa phủ đến đâu lũ quỷ phải rút lui đến đấy. Cuối cùng chiếc áo che phủ cả đất đai lũ quỷ không còn đất để ở, phải rút ra biển.

Bị mất hết đất đai, quỷ vừa tiếc vừa hầm hực tức giận, chúng chiêu tập binh mã vào cướp lại. Nhờ có sự giúp đở của đức Phật nên người dân đã đánh bại tất cả những đợt tấn công của lũ quỷ. Nhận thấy không thể nào đánh thắng loài người, lũ quỷ đành quỳ xuống van xin đức Phật rũ lòng thương tưởng, mỗi năm vào những ngày Tết cho chúng trở lại đất liền để viếng thăm mồ mã tổ tiên của chúng. Phật thương tình hứa khả, nhưng để lũ quỹ không vào quấy nhiễu người dân, đức Phật dạy người dân trồng cây nêu vào dịp Tết để xua đuổi chúng.

Gần đây, trên Cây nêu người ta treo lá phướng ngũ sắc tượng trưng cho ngũ hành, trầu cau, gạo muối, một cái khánh có dùi, hay cái chuông nhỏ có treo cục kim loại ở trong, để khi gió thổi, khánh hay chuông bị giao động khua ra tiếng nghe vui tai.

Trong nhà, người ta dọn mâm cơm cúng ông bà, rước ông Táo. Trẻ con được mặc quần áo mới. Cả nhà sẽ dùng bữa cơm đông đủ mọi người, là buổi tiệc tất niên của gia đình.

Ngoài đường, người ta treo cờ, ban đêm treo những chiếc lồng đèn ngôi sao hay lồng đèn hình con thú có màu sắc, làm cho cảnh sắc ban đêm ở thôn quê sáng sủa, vui mắt, trẻ con ra đường từng tốp vài ba đứa, hớn hở nắm tay nhau đi xem đèn, đốt pháo chuột.

Đêm 30 Tết gọi là đêm Trừ Tịch 除夕, Trừ có nghĩa là bỏ, trừ khử, Tịch có nghĩa là đêm, nghĩa là đêm trừ bỏ cái xấu của năm cũ, theo Trung Hoa nó mang ý nghĩa đêm khu trừ ma quỷ. Vào giờ Tý, người ta cúng Giao Thừa 交 承 Giao có nghĩa là bàn giao lại, Thừa có nghĩa là tiếp nối. Theo tín ngưỡng dân gian, người ta tin rằng có 12 vị thần, luân phiên cai quản trần gian, mỗi năm một vị. Do đó vị thần năm cũ đi, trao quyền hành lại cho vị thần năm mới tiếp nhận. Vì vậy người ta cúng xôi, thịt, rượu ở đình làng, hoa quả ở chùa. Ở nhà, người ta bày bàn ra sân cúng có hương, đăng trà quả. Trong Nam có bàn thông thiên, thường người ta cũng cúng trong nhà với trà mứt, ở bàn thông thiên với hương đăng trà quả như trên, sau khi cúng thì đốt pháo mừng năm mới.

Sáng Mồng Một, chủ nhà sẽ ăn mặc chỉnh tề, khăn đống áo dài, cúng bánh mứt, nước trà, lạy bàn thờ ông bà, tiếp theo con cháu lạy bàn thờ, sau đó ông bà ngồi cho con cháu chúc thọ, chẳng hạn như: “- Năm mới con chúc cha mẹ sống lâu trăm tuổi, khỏe mạnh” rồi lạy 2 lạy. Ông bà hay cha mẹ nhận mừng thọ sẽ cho lộc đầu năm cho con cháu là tiền. Ngày nay ông bà, cha mẹ hầu hết “miễn lạy”, lì xì cho con cháu “phong bao” để “lấy hên” đầu năm.

Sau đó những người lớn tuổi đi lạy bàn thờ những nhà có thờ tự ông bà trong họ, vì trong Nam ít có “từ đường”, chúc Tết những người thân. Việc lễ lạy thăm viếng chúc tụng trong ba ngày Tết có Tục ngữ:

Mồng Một ngày Cha, Mồng Hai ngày Mẹ, Mồng Ba ngày Thầy.

Hoặc ca dao có câu:

Mùng Một thì ở nhà Cha,
Mùng Hai nhà Vợ, Mùng Ba nhà thầy.

Sáng Mồng Một Tết, ai đến nhà trước, người ta tin rằng đó là người xông đất đầu năm ở nhà mình, người ấy có thể mang đến điềm hay vận hên, xui, may, rủi cho cả năm. Do vậy có nhiều người tìm những người tuổi hạp với mình để nhờ xông đất, có người nhờ người có tên Phúc, Lộc, Thọ… xông đất nhà mình để được phước, được lộc hay sống lâu. Cũng do vậy mà có một số người không dám đi thăm bạn bè ngày Mồng Một Tết, hoặc phải chờ chiều hay tối mới đi thăm, để tránh xông đất nhà người ta.

Trong ba ngày Tết người ta đốt pháo dây, pháo nồi, pháo chuột, đêm đốt pháo bông, những đội lân đi múa mừng, được gia chủ thưởng tiền. Có pháo và Lân làm cho ngày Tết rộn thêm niềm vui. Thập niên 90 nhà nước  Cộng Sản Việt Nam cấm đốt pháo làm cho ngày Tết mất vui phần nào.

Trong ba ngày Tết, người ta thường cúng trên bàn thờ mỗi ngày hai buổi cơm sáng, chiều, bà con tới nhà mời rượu trà bánh mứt, gặp bửa mời cơm gây thành bữa tiệc, để tiêu khiển thì giờ người ta bày ra những cuộc chơi như “hốt me”, đánh bài cào, bài tứ sắc, lắc “bầu cua cá cọp”.

Ba ngày Tết, có nhiều thứ người ta kiêng cữ, để chọn được may mắn suốt năm, ra khỏi nhà đầu năm phải coi hướng tùy theo năm và tuổi mỗi người có hướng xuất hành đầu năm khác nhau. Người ta kiêng cữ quét nhà, theo điển tích 搜神记 Sưu thần ký của Trung Quốc như sau:

Có người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà được vài năm thì Âu Minh ăn nên làm ra, giàu to. Ngày Mồng Một Tết năm đó, Âu Minh đánh Như Nguyệt, cô ta sợ quá chui vào đống rác rồi biến mất, sau đó nhà Âu Minh nghèo đi. Kể từ đó, mọi người kiêng quét nhà, đổ rác trong ba ngày tết.

Cũng cùng từ câu chuyện trên, từ sáng Mồng Một Tết cho đến hết ngày Mồng Ba Tết, mọi người trong gia đình không được làm điều xấu, cự cãi nhau, đánh nhau hoặc nói những điều không tốt đẹp.

Sau năm 1954, đêm 30 hay ngày Mồng Một Tết người ta thường đi Lăng Ông hay Chùa, Miếu hái “lộc” làm cho cây cảnh chưng bày ba ngày Tết bị xác xơ. Sau 1975, Tết người ta đi chùa mỗi người đốt một bó nhang, chỗ nào cũng cắm nhang, khói nhang mù mịt. Chùa chiềng không còn thanh tịnh, trang nghiêm.

Ba ngày đó, chợ búa không bán, xe cộ không chạy. Ngày Mồng Ba những nhà nào hành nghề như thợ rèn, thợ mộc, thợ hồ, thợ bạc… sẽ cúng ra nghề với con gà luộc, hương, đăng, hoa quả và rượu. Nếu nghề có nhiều thợ cùng làm sau khi cúng vái, họ sẽ bày ra cỗ bàn để nhậu nhẹt và sau đó hành nghề. Chợ búa mở cửa, xe cộ chạy lại.

Đến ngày Mồng Ba, người ta bày mâm cỗ cúng gọi là tiễn đưa ông bà, còn Cây nêu đến ngày Mồng Bảy người ta mới hạ xuống, vì xưa ăn Tết đến bảy ngày. Dần dần còn ba ngày.

Tết có những phong tục, trong đó có những thuần phong mỹ tục, nhưng cũng có những phong tục hủ bại. Những hủ tục như kiêng cữ quét nhà, làm cho nhà nhiều rác mất vệ sinh; đi chùa miếu hái lộc, những hoa, những cây cảnh chưng dọn cho đẹp thì đã bị hái hoa, bẻ cành trơ trọi! Tin vào việc xông đất đầu năm! Những hủ tục làm cản trở cho sinh hoạt, mất vệ sinh, thẩm mỹ. Nên bài trừ. Những thuần phong mỹ tục nên giữ gìn, vì đó là nét văn hóa của dân tộc.

Có một điều tôi chưa nói đến, tại sao Tết ở miền Nam cúng bánh Tét, đãi khách bánh phồng trong khi miền Bắc có bánh chưng, bánh đa. Có ảnh hưởng gì trên đất cũ của người Khmer?

Những năm 50, 60 là những năm miền Nam thoát khỏi ách đô hộ của người Pháp, mới được độc lập. Đất nước thanh bình, nhân dân ấm no hạnh phúc. Tết người ta đi lại vui chơi, pháo nổ giòn tai, lân múa rộn ràng, trẻ con tung tăng khoe áo mới. Biết đến bao giờ được trở lại như xưa, từ đồng bằng cho đến cao nguyên, từ nhà quê cho tới thành thị, người già cũng như trẻ con tưng bừng đón Tết khi đất nước thanh bình, nhà nhà ấm no hạnh phúc.